---ooOoo---
Sunday, June 30, 2013
Wednesday, June 26, 2013
NGƯỜI VIỆT TỊ NẠN CS VÀ BỆNH “STOCKHOLM”
“… nhưng sao đi mà không bảo gì nhau, để anh gọi, tiếng thơ buồn
vọng lại…”
("Áo Lụa Hà Đông” - Nguyên Sa)
Lời mở đầu:
Mặc dù đã có mơ ước,
nhưng tôi không (thể) trở thành một bác sĩ y khoa; và cũng không thể là một nhà
tâm lý học… Tôi đành an phận với danh vị của một phó thường dân Nam bộ.
Thành thực mà nói, về “Trí” thì có chỉ số thông minh (IQ) của tôi có lẽ cao hơn
nhiệt độ trong nhà một chút đỉnh; về “Tài” thì chỉ tạm đủ kiếm cơm nuôi vợ con
sống qua ngày qua tháng; về “Sức” thì cũng đã đuối, may ra còn đủ để đẩy mấy
cái thùng rác ra trước cửa cho xe rác lấy rác đi mỗi tuần một lần là
cùng… Riêng nhãn quan thì dường như vẫn mạnh giỏi, với tuổi 64 mà chưa phải
đeo kiếng lão, có thể nhận ra không khó khăn lắm đồng 25 xu ai lỡ làm rớt trên
mặt đường… Với cái nhãn quan này, tôi đã nhìn thấy, càng ngày có càng nhiều,
người chung quanh trong số đông “đồng bào người Việt tị nạn cộng sản,” dưới nhiều
hình thức và cường độ khác nhau, mắc phải bệnh tâm lý thời đại mà các
khoa học gia gọi là “Stockholm Syndrome” (tạm dịch là “Bệnh Stockholm”).
TVG
Để giúp quý vị nhận diện được những con “bệnh” của “Bệnh
Stockholm” này dễ hơn, tôi xin phép trình bày một chút chi tiết nguồn gốc và bệnh
lý học rất đại cương mà tôi còn nhớ lại từ môn “Psychology 101” mà tôi đã lấy tại
UCLA năm 1980 trước đây cho đủ tình trạng “sinh viên toàn thời gian (full time
student).”
Như vậy, trước khi bị “Bệnh Stockholm” lúc nào không hay, người đang ở trong tình trạng tâm lý khỏe mạnh bỗng nhiên trở bệnh; bệnh nhân đã trải qua tuần tự 3 giai đoạn như sau:
Trần Trường cùng gia đình vượt biên năm 1980 và được chính phủ Mỹ cho phép định cư tị nạn cs tại California. Hắn sống bằng nghề sang Băng đĩa Video lậu đem cho dân tị nạn cs thuê. Năm 1999 (sau gần 20 năm sống nghề sang bang đĩa lậu), bệnh tâm thần “Stockholm” bỗng bùng phát chỉ qua một vài đêm (overnight).
Tuy chỉ là một cù lũ nhí (“small fries”) nhưng qua thời gian, con cắc kè NPH này đổi màu khá ngoạn mục, có thể nói là ngoạn mục nhất trong các con cắc kè tị nạn cs. Hắn có “trình độ” tài nghệ của một tên danh hề trước mắt cộng đồng tị nạn cs. Là một anh lính VNCH đã giải ngũ từ khuya (?), cựu nhân viên sở Mỹ ở Việt Nam (?)… may mắn chạy qua Mỹ tị nạn cs từ năm 1975. Hắn tự xưng, tự đổi nhiều mầu áo mà bàn dân thiên hạ không ai có thời giờ kiểm chứng là hắn không có “credits” thật hay không: nhà báo (?), cựu sĩ quan Biệt Động Quân (?), đại diện cựu chiến sĩ VNCH (?)…
Nhìn hình ảnh hắn quỳ lạy, khóc lóc với nước mắt nước mũi dàn dụa lau không kịp, mặc quân phục BĐQ trước tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ ở Westminster, California. Rồi cũng lại khóc lóc nước mũi nước dãi lòng thòng, cái miệng khóc méo xệch ở phi trường Nội bài Hà nội, mếu máo “Ối giời đất ơi! Đáng lẽ tôi phải về nước từ lâu rồi” thì dù không phải là thầy thuốc, tôi cũng có thể quả quyết là hắn bị bệnh tâm thần “Stockholm” rất loại nặng (hardcore).
Sống trong một nước tự do, về cá nhân hắn, hắn tha hồ muốn làm gì trò thì làm: lúc thì mặc quân phục rằn ri cài huy hiệu BĐQ QLVNCH quỳ lạy khóc lóc tri ân chiến sĩ Việt Mỹ tại tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ ở Weatminster Little Saigon; lúc thì tham dự lễ tiếp tân của tổng lãnh sự vc ở San Franciso; lúc về Việt Nam 2-3 lần tuyên bố với truyền thông lề phải vi-xi các lời lẽ phỉ báng cộng đồng và sự chiến đấu chống cộng của Miền Nam; lúc bắt tay các sĩ quan công an và viên chức chính phủ vc một cách hãnh diện… Nhưng chỉ xin hắn đừng có tự tiện xưng là đại diện cho đồng bào, chiến sĩ VNCH tị nạn cs ở hải ngoại. Mẹ kiếp! Trò chướng mắt nhất của hắn, ngang nhiên khiêu khích cộng đồng tị nạn cs, là đăng hình cờ máu cs trên trang mạng “kbchn.net” (viết tắt của KBC Hà Nội) của hắn. Nên biết , trước đây hắn vẫn dùng trang mạng này mục đích “khuyến mãi” cho con cắc kè cái vợ hắn cũng thích mặc áo rằn ri BĐQ lên truyền hình tị nạn cũng khóc lóc rất mùi mẫn tỏ vẻ thương lính trận VNCH với y chang bài bản tréo cẳng ngỗng của hắn. Nghề tay trái của cắc kè cái này là “ca sĩ” tên tuổi (“tên” chưa ai biết mà “tuổi” thì ai cũng biết hết ráo!) Hai vợ chồng đổi màu từ chống cộng cực đoan thành lập trường chuối luộc phải “hòa giải với vi-xi” để xây dựng… cái XHCN củ cải.
Phụ chú:
Trái nghịch với “Bệnh Stockholm” là “Bệnh Lima (Lima syndrome).”
“Bệnh Lima” là bệnh tâm lý của người độc ác bỗng nhiên yêu, thương, có cảm tình với nạn nhân của mình… Trường hợp tâm lý này rất hi hữu và nếu có thực sự xẩy ra đi nữa thì câu chuyện cũng khó lòng thuyết phục người nghe, người đọc (là chuyện có thật!)
Chỉ thấy lác đác một vài trường hợp của “Bệnh Lima” trên các mạng tiếng Việt. Chẳng hạn Đại úy quản giáo cs Nguyễn Văn Thà đã có cảm tình lén lút giúp đỡ tù nhân VNCH trong trại cải tạo cs trong câu chuyện “Ở cuối hai con đường” của ông bạn Phạm Tín An Ninh.
Trần Văn Giang
14 tháng 6 năm 2013
Nguồn: “BM blog”
Tên “Bệnh Stockholm” lần đầu tiên được Bác sĩ Tâm lý học Nils
Bejerot dùng để đặt cho một căn bệnh tâm lý phát hiện từ những người bị bắt làm
con tin, bị giam giữ trong các hầm chứa tiền của nhà băng “Kreditbanken” ở
Stockholm, thủ đô của Thụy điển, bởi một nhóm cướp nhà băng từ ngày 23 đến 28
tháng 8 năm 1973. Sau 6 ngày bị giam giữ, các con tin đã tỏ ra có cảm
tình một cách rất bệnh hoạn (“Traumatic bonding”) với những tên cướp mặc dù họ
bị các tên cướp đối xử rất dã man… Các con tin còn lên tiếng bênh vực mục
đích cướp bóc và sự đối xử, hành hạ các con tin của các tên cướp. Sau đó,
họ từ chối hợp tác với chính quyền để truy tố các tên cướp khi các tên cướp bị
bắt và con tin được giải thoát an toàn. Tệ hơn nữa, có 2 trong 4 con tin
(đều là nữ nhân viên của nhà băng) sau đó đã đính hôn với 2 tên cướp (?) Chữ “Bệnh
Stockholm” cũng được dùng lần đầu tiên trong các buổi phát hình tin tức về vụ
cướp náy vào năm 1973. (Theo Wikipedia).
1- Bị áp lực tâm lý (tinh thần) khá nặng và lâu dài (có thể là sự
lo âu, sợ hãi, hoang mang, quẫn trí…)
2- Bị một người, một nhóm người, hay một cơ chế độc ác nào đó trực
tiếp hành hạ tinh thần và thể xác; hay đối xử một cách mất nhân phẩm; bị gán
cho những tội tày trời mà người bệnh chưa bao giờ dám nghĩ đến, chưa nói đến
chuyện đã phạm phải.
3- Quan trọng hơn hết, có một giờ phút, một ngày đẹp trời nào
đó, vì bận rộn, vì quên, hoặc vì hoàn cảnh thay đổi bất chợt, bỗng nhiên nhóm
người ác độc có thể tạm thời ngừng sự đối đối xử tàn tệ trong một giai đoạn ngắn,
hay có thể ngừng hẳn vì không còn khả năng hay quyền hạn để tiếp tục hành hạ nữa…
Nạn (bệnh) nhân, trong giây phút hoang mang này, chợt cảm thấy
hình như mình được kẻ ác độc thương tình, tha thứ; rồi tự nhiên có một loại
tình cảm, một loại suy nghĩ rất quái gở nẩy nở trong tâm trí của nạn nhân: Thấy
người hành hạ mình (hay chế độ gây ra
cái cảnh khổ của mình) là một người, một cơ chế đáng yêu, đáng mến,
đáng phục… Việc mình bị hành hạ, bị đối xử mất nhân phẩm là chuyện mà nhưng người
ác độc phải làm; mình có lẽ xứng đáng bị đối xử tàn tệ để chuộc lại tội (mà mình không bao giờ phạm tội?
Cái tâm lý bệnh hoạn mâu thuẫn nhau ở chỗ này!)….
Các nhà Tâm lý học cũng
giải thích, ngày qua ngày, dần dà nạn nhân bị bệnh tâm lý trầm trọng hơn vì sự
đối xử dã man liên tục, dài hạn triền miên mà không hề dám tỏ ra một thái độ
hay một hành động gì để chống đối lại. Họ sợ.
Sợ rằng nếu ra mặt chống đối có thể bị giết mất mạng ngay; hay ít nhất cũng sẽ
bị hành hạ dã man hơn… Tâm lý thụ động này phát xuất từ sự tuyệt vọng.
Họ đã không thể nào tìm ra, hay không thấy được sự giúp đỡ từ bên ngoài; hoặc
đôi khi có sự giúp đỡ nhưng chỉ là sự lường gạt để rồi họ không còn tin cẩn vào
sự giúp đỡ nữa; dù là sự giúp đỡ kế tiếp là thực tâm thực Tình… Sự thụ động dẫn đến cái tâm lý
“tự ti,” có nghĩa là nạn nhân nghĩ chuyện mình bị hành hạ, bị đày đọa, gặp những
cái bất hạnh là vì lỗi của chính mình… mình có lỗi, mình phải chịu đựng để
đền lại cái lỗi đó (?), người hành hạ mình không có lỗi gì cả, họ chỉ làm công
việc của họ phải làm. Chung quanh chúng ta, nhiều hoàn cảnh gia
đình có người chồng vũ phu, rượu chè say sưa đánh đập vợ con tàn nhẫn hết ngày
này qua tháng nọ mà người vợ vẫn chịu đựng, không tố cáo chống với chính quyền;
hay bỏ chồng…
Nhiều hoàn cảnh tù nhân
“cải tạo” bị cs bỏ đói, hành hạ thể xác chết đi sống lại bây giờ vẫn muốn “hòa
hợp hòa giải,” “thi hành sự đại đoàn kết” với vc; Dân vượt biên vượt biển tìm tự
do bị mất hết tài sản của cải vì bị đánh cướp trên bộ hay gặp hải tặc trên biển;
có nhiều trường vợ con bị hãm hiếp, bị giết, bị chết ngay trước mặt; nhưng họ vẫn
muốn trở về Việt Nam hợp tác với cs để “quên quá khứ hướng đến tương
lai…”
Tóm lại, loại người này là bệnh nhân của cái bệnh tâm thần thời
đại gọi là “Bệnh Stockholm.”
Ở hải ngoại, số người lâm phải bệnh tâm thần “Stockholm” rất
đông đảo. Họ thuộc đủ loại, hạng người trong cộng đồng tị nạn cs. Từ dân ngu khu đen (như
Trần trường, Nguyễn Phương Hùng) cho đến lãnh đạo cao cấp của quân đội, chính
phủ (Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ Mậu, Trần Thiện Khiêm), lãnh đạo tôn giáo (Thích Giác
Nhiên, Thích Mãn Giác (chết), Thích Nguyên Hạnh….), văn thi nhạc ca sĩ (Phạm
duy, Từ Công Phụng, Thanh Tuyền, Elvis Phương, Chế Linh, Hoài Linh) cho đến trí
thức khoa bảng (Luật sư Nguyễn Hữu Liêm, LS Phùng Tuệ Châu, GS Vũ Đức Vượng)… Có thể nói rằng bệnh (“Stockholm”) là bệnh
truyền nhiễm, lan tràn qua mọi tầng lớp của cộng đồng tị nạn cs. Qua truyền
thông tiếng Việt toàn cầu, bệnh này được nhìn thấy dưới nhiều hình thức và nhiều
tên khác nhau gọi nghe quen thuộc hơn. Phe ta thì gọi là “Trở cờ,” “Đổi
màu, “Phản thùng,” “Phản bội,” “Đâm sau lưng chiến sĩ…” Riêng vc
với bản chất cố hữu gian manh thì bọn chúng giảo quyệt hơn. Chúng dùng những
danh từ hoa mỹ mồi chài rất hấp dẫn như “Quê hương là chùm khế ngọt,” “Khúc
ruột ngàn dậm,” “Quên quá khứ hướng đến tương lai,” “Đại
đoàn kết dân tộc,” “Hòa hợp hòa giải xây dựng đất nước…”
Nhưng mặt khác vc vẫn gọi người của “bên thua cuộc” với các tên với ẩn ý khinh
thị như “Mỹ ngụy” “Ngụy quân, ngụy quyền”, “phản động” “Thế lực thù địch…”
Thử nhìn vào một vài bệnh nhân điển hình xem bệnh trạng diễn tiến
nặng nhẹ như thế nào qua các lời nói, cử chỉ, hành động của họ… Tất cả các chi
tiết đã được ghi lại sống động qua Video clips, hình ảnh và trên điện báo cũng
như báo in để tự mình có thể chẩn bệnh của chính mình xem sao!
Trần Trường (1999)
Thật ra, tên tâm thần ngu xuẩn này không đáng được nêu lên ở
đây. Nhưng vì hành động điên khùng muốn nổi bật lấy tiếng ngu của hắn đã làm
hàng ngàn người Việt tị nạn cs phản ứng biểu tình chống đối ở Little Saigon, thủ
đô của dân Việt tị nạn cs… Hắn trở thành một bệnh nhân tâm thần “Stockholm”
tiêu biểu của thời đại.
Trần Trường cùng gia đình vượt biên năm 1980 và được chính phủ Mỹ cho phép định cư tị nạn cs tại California. Hắn sống bằng nghề sang Băng đĩa Video lậu đem cho dân tị nạn cs thuê. Năm 1999 (sau gần 20 năm sống nghề sang bang đĩa lậu), bệnh tâm thần “Stockholm” bỗng bùng phát chỉ qua một vài đêm (overnight).
Lợi dụng sự tự do ở Hoa kỳ, hắn đã can đảm (hay ngu xuẩn?) treo
cờ đỏ sao vàng và đặt bàn thờ vái lạy hình ảnh hcm ngay trong tiệm cho thuê
băng đĩa lậu HiTek của hắn tại khu thương mại Little Saigon. Kết quả đưa
đến một cuộc biểu tình đông đảo chưa từng có của cộng đồng tị nạn cs ở hải ngoại
sau 30/4/1975. Hắn bị bắt và bị 100 ngày tù ở nhà
tù Orange County vì tội sang đĩa lậu. Sau án tù ở, bệnh
khùng “Stockholm” trở nên trầm trọng hơn. Năm 2005 hắn đâm ra mê sảng,
bán hết tài sản lấy đô la tiền mặt mà hắn ki cóp qua bao năm cho thuê đĩa lậu độ
200 ngàn đô la; theo tiếng gọi bịp bợm “đại đoàn kết dân tộc (?)” của vi-xi,
đem tất cả số đô la này về Việt Nam để mua đất đào ao nuôi cá “góp phần xây dựng
đất nước.”
Chỉ được khoảng 2 năm - Năm 2007 - chương trình ao cá đang tiến
triển ngon lành thì Trần Trường bị cán bộ cs cưỡng chiếm mất toi. Chuyện
bị cưỡng chiếm này đâu có gì lạ dưới chế độ cs ngày nay (cứ xem số rất đông dân
oan trường kỳ phản đối việc cs cưỡng chiếm đất đai thì biết!). Đã mất hết
của, Trần Trường còn nợ tiền ngân hàng và các nhà thầu cung cấp thực phẩm nuôi
cá. Ngân hàng và các nhà thầu lên tiếng sẽ đưa ra Trần Trường ra tòa nếu
không thanh toán xong tiền nợ đúng hạn… Trần Trường phải vội vàng bỏ hết
của chạy lấy người sang… Mỹ (không phải Mỹ tho!). Bây giờ hắn có vẻ hơi tỉnh
táo lại, nhưng túi không còn một xu.
Kể ra, Trần Trường vẫn còn may mắn. Hắn mất hết của nhưng
chưa mất mạng. Hắn còn sống để họp báo ở San Jose nam 2012 để xin lỗi cộng
đồng tị nạn về chuyện hắn đã làm (Hay thật! Cứ như xem phim hài hước); và
xin cộng đồng quyên góp giúp hắn ít tiền để hắn trở lại Việt Nam kiện
củ khoai cs. Tên điên này thiệt tình ngu hết biết; lại tưởng dân tị nạn
cs ai cũng ngu như hắn. Tôi không phải là thầy tướng số, nhưng có thể thấy
tương lai của tên hèn hạ này ra thế nào rồi. May mắn lắm thì có lẽ không
bao lâu nữa thì hắn sẽ phải đi ăn mày. “Góp phần xây dựng đất nước” kiểu
này đồng nghĩa với “đi ăn mày,” “đang từ mạnh giỏi biến sang từ trần…”
Trần Trường học bài học đầu tiên và cũng là cuối cùng về
cs. Trần Trường dù sao cũng là một bằng chứng còn sống, vẫn còn đang thoi
thóp thở, nhưng còn đủ sức tuyên bố tuyên mẹ chửi cs… Hy vọng rằng, trong
những ngày còn lại của cuộc đời trên đất Mỹ, hắn có thể làm vài bịnh nhân
“Stockholm” ở hải ngoại vừa mới manh nha nhuốm bệnh có cơ hội tỉnh táo người ra
mà không (chưa) cần phải chữa trị gì cả.
Biết rồi, khổ lắm… nhưng ai mà biết được rằng họ có muốn tỉnh
táo hay không là chuyện khác!
Nguyễn Phương Hùng (NPH)
Trước Tượng đài chiến sĩ Việt-Mỹ tại Little Saigon
Tuy chỉ là một cù lũ nhí (“small fries”) nhưng qua thời gian, con cắc kè NPH này đổi màu khá ngoạn mục, có thể nói là ngoạn mục nhất trong các con cắc kè tị nạn cs. Hắn có “trình độ” tài nghệ của một tên danh hề trước mắt cộng đồng tị nạn cs. Là một anh lính VNCH đã giải ngũ từ khuya (?), cựu nhân viên sở Mỹ ở Việt Nam (?)… may mắn chạy qua Mỹ tị nạn cs từ năm 1975. Hắn tự xưng, tự đổi nhiều mầu áo mà bàn dân thiên hạ không ai có thời giờ kiểm chứng là hắn không có “credits” thật hay không: nhà báo (?), cựu sĩ quan Biệt Động Quân (?), đại diện cựu chiến sĩ VNCH (?)…
Nhìn hình ảnh hắn quỳ lạy, khóc lóc với nước mắt nước mũi dàn dụa lau không kịp, mặc quân phục BĐQ trước tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ ở Westminster, California. Rồi cũng lại khóc lóc nước mũi nước dãi lòng thòng, cái miệng khóc méo xệch ở phi trường Nội bài Hà nội, mếu máo “Ối giời đất ơi! Đáng lẽ tôi phải về nước từ lâu rồi” thì dù không phải là thầy thuốc, tôi cũng có thể quả quyết là hắn bị bệnh tâm thần “Stockholm” rất loại nặng (hardcore).
Sống trong một nước tự do, về cá nhân hắn, hắn tha hồ muốn làm gì trò thì làm: lúc thì mặc quân phục rằn ri cài huy hiệu BĐQ QLVNCH quỳ lạy khóc lóc tri ân chiến sĩ Việt Mỹ tại tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ ở Weatminster Little Saigon; lúc thì tham dự lễ tiếp tân của tổng lãnh sự vc ở San Franciso; lúc về Việt Nam 2-3 lần tuyên bố với truyền thông lề phải vi-xi các lời lẽ phỉ báng cộng đồng và sự chiến đấu chống cộng của Miền Nam; lúc bắt tay các sĩ quan công an và viên chức chính phủ vc một cách hãnh diện… Nhưng chỉ xin hắn đừng có tự tiện xưng là đại diện cho đồng bào, chiến sĩ VNCH tị nạn cs ở hải ngoại. Mẹ kiếp! Trò chướng mắt nhất của hắn, ngang nhiên khiêu khích cộng đồng tị nạn cs, là đăng hình cờ máu cs trên trang mạng “kbchn.net” (viết tắt của KBC Hà Nội) của hắn. Nên biết , trước đây hắn vẫn dùng trang mạng này mục đích “khuyến mãi” cho con cắc kè cái vợ hắn cũng thích mặc áo rằn ri BĐQ lên truyền hình tị nạn cũng khóc lóc rất mùi mẫn tỏ vẻ thương lính trận VNCH với y chang bài bản tréo cẳng ngỗng của hắn. Nghề tay trái của cắc kè cái này là “ca sĩ” tên tuổi (“tên” chưa ai biết mà “tuổi” thì ai cũng biết hết ráo!) Hai vợ chồng đổi màu từ chống cộng cực đoan thành lập trường chuối luộc phải “hòa giải với vi-xi” để xây dựng… cái XHCN củ cải.
Tại phi truờng Nội Bài, Hà Nội
Báo lề phải của cs được dịp tuyên truyền nhân dịp cắc kè NPH được phép đi thăm hải đảo ở biển Đông, vùng đanh có tranh chấp với Trung cộng, viết về con cò mồi không phải tốn kém bao nhiêu cho công tác “địch vận” như sau:
(nguyên văn)“… Ông cảm thấy ân hận vì đã gần 36 năm mới đặt chân lên nơi mình đã sinh ra. “Tôi là một người Việt Nam bỏ đất nước ra đi dù là trong hoàn cảnh đặc biệt nhưng sao đất nước thống nhất lâu rồi tôi lại không về?” - ông Hùng tự hỏi. Từng tham gia quân đội Sài Gòn, ông Hùng đã rời bỏ quê hương và không muốn quay lại bởi những thông tin mù quáng và bị bưng bít. Thế nhưng, sau 9 ngày về với đất mẹ, ông đã hiểu mình bị lừa dối. Ông tâm sự: “Ai cũng sung sướng được đặt chân lên hải đảo thiêng liêng nhưng với tôi còn thêm cảm giác ăn năn của một người con từng bỏ đất nước đang quay về tạ tội”. (hết trích)
Tình trạng bệnh lý của bệnh nhân “kbchanoi” này đang đi vào cấp 4 - thời kỳ chót, xem như đã hết thuốc chữa. Cộng đồng tị nạn cứ việc ngồi thong thả gãi… trán để nhìn hắn “cash” thêm độ vài check SSI nữa là sẽ hắn hết mầu để đổi, hết hơi để khóc… Nếu thật tình muốn ăn năn quay về tạ tội với “tổ quốc” thì nhân tiện tôi đề nghị hắn nên chơi cho ngon, lên tiếng “chống Mỹ kí nước” bằng cách cụ thể từ bỏ luôn mấy cái checks SSI cuối cùng của đế quốc Mỹ gởi mỗi tháng; về sống vĩnh viễn ở Việt Nam (Mà nè! Nhớ đừng có đào ao nuôi cá nhe cha nội!) để mà bắt tay với cs đóng góp xây dựng đất nước cs (“Đảng và tổ quốc là một,” “Yêu tổ quốc là yêu XHCN!”) Đi về Việt Nam 3 lần rồi, suy nghĩ sao mà trở về Mỹ để làm chi những chuyện oan trái vậy hà?
(nguyên văn)“… Ông cảm thấy ân hận vì đã gần 36 năm mới đặt chân lên nơi mình đã sinh ra. “Tôi là một người Việt Nam bỏ đất nước ra đi dù là trong hoàn cảnh đặc biệt nhưng sao đất nước thống nhất lâu rồi tôi lại không về?” - ông Hùng tự hỏi. Từng tham gia quân đội Sài Gòn, ông Hùng đã rời bỏ quê hương và không muốn quay lại bởi những thông tin mù quáng và bị bưng bít. Thế nhưng, sau 9 ngày về với đất mẹ, ông đã hiểu mình bị lừa dối. Ông tâm sự: “Ai cũng sung sướng được đặt chân lên hải đảo thiêng liêng nhưng với tôi còn thêm cảm giác ăn năn của một người con từng bỏ đất nước đang quay về tạ tội”. (hết trích)
Tình trạng bệnh lý của bệnh nhân “kbchanoi” này đang đi vào cấp 4 - thời kỳ chót, xem như đã hết thuốc chữa. Cộng đồng tị nạn cứ việc ngồi thong thả gãi… trán để nhìn hắn “cash” thêm độ vài check SSI nữa là sẽ hắn hết mầu để đổi, hết hơi để khóc… Nếu thật tình muốn ăn năn quay về tạ tội với “tổ quốc” thì nhân tiện tôi đề nghị hắn nên chơi cho ngon, lên tiếng “chống Mỹ kí nước” bằng cách cụ thể từ bỏ luôn mấy cái checks SSI cuối cùng của đế quốc Mỹ gởi mỗi tháng; về sống vĩnh viễn ở Việt Nam (Mà nè! Nhớ đừng có đào ao nuôi cá nhe cha nội!) để mà bắt tay với cs đóng góp xây dựng đất nước cs (“Đảng và tổ quốc là một,” “Yêu tổ quốc là yêu XHCN!”) Đi về Việt Nam 3 lần rồi, suy nghĩ sao mà trở về Mỹ để làm chi những chuyện oan trái vậy hà?
Nguyễn Cao Kỳ (NCK)
Thiệt tình… Sao cha nội NHL không “thực sự” trở về VN luôn tìm cách đào ao nuôi cá cho nó biết rõ trắng đen?! Khoa bảng chi chi mà trình độ chính trị còn kém cỏi quá. CS nó xỏ mũi, giựt dây chiều nào cũng xong… hết biết.
Kết luận
Để kết thúc, tôi xin mượn một câu nói của Bác học Albert Einstein gói bài nhận định về “bệnh Stockholm” này:
“Chỉ có hai thứ vô tận: Đó là vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…”
“Two things are infinite: the universe and human stupidity; and I'm not sure about the universe.”
Albert Einstein
“.. Chúng ta (VNCH) thua là phải rồi… Họ (VC) có công thống
nhất đất nước.
Họ làm được cái mà chúng ta không làm được. Tôi phải thán
phục họ…”
Qua bất cứ một cơ hội được phỏng vấn nào ở trong cũng như ngoài
nước, NCK, nhân vật đứng thứ hai của chính thể Cộng hòa Nam Việt Nam, không bao
giờ quên ca đi ca lại cái lời ca rất “hữu nghị” này.
Nhìn lại những lời lẽ mị dân rất đanh thép nặng ký ngày trước
như “Phải Bắc tiến để tiêu diệt cộng sản (trước năm 1975),” “Quyết ở lại (miền
Nam) đành cộng sản đến người lính cuối cùng, đến giọt máu cuối cùng (vào tháng
4/1975),” bây giờ lại lột lưỡi tuyên bố ngon ơ:
“… Nhiều người cùng lứa
già với tôi nay không còn phản đối chế độ trong nước nữa. Khi biết tôi có ý định
về Việt Nam ở hẳn, có người bảo tôi rằng “Khi nào ông về thì tôi về theo.” Rồi
chim lại bay về tổ mà. Bây giờ tôi đã 75, chắc là cũng chỉ có thể cố gắng được
trong khoảng 3 năm nữa để góp phần xây dựng những nhịp cầu của sự nghiệp đại
đoàn kết dân tộc. Nhưng tôi tin là cùng lắm 5 năm nữa là sẽ không còn vấn đề
trong nước và ngoài nước.” (Thứ bảy, 27 Tháng 11 năm 2004)
Tôi đã viết khá nhiều về me xừ “Bú đà chai” NCK trở cờ này rồi.
Ở đây tôi chỉ xin phép vắn tắt thêm vài hàng:
Trong đám bệnh nhân “Stockholm,” NCK, với cương vị “cựu Phó Tổng
thống, cựu thủ tướng VNCH” trước đây, là người gây đã thiệt hại lớn lao nhất
cho chính nghĩa, cho các nỗ lực chống độc tài cs của các tổ chức, cộng đoàn người
Việt tị nạn. Sau 7 năm về Việt Nam rồi hui nhị tì ở Mã lai ngày 23 tháng
7 năm 2011, NCK không có đến mảy may một hành động gì tạm gọi cho gần đúng
nghĩa là của việc “đại đoàn kết dân tộc,” “hòa hợp hòa giải dân tộc…”
Tóm lại , NCK chỉ thỉnh thoảng nói lên được vài tiếng ca ngợi sự chiến thắng của
cs và còn lại thời giờ để… đánh Golf… thiệt bótay.com.
N.C.Kỳ trong buổi đón
tiếp N.M.Triết ở Dana Point (23/6/2007)
Trần Thiện Khiêm (TTK)
Một nhân vật chính, có tên công khai trong sổ lương của CIA Mỹ,
đã khuynh loát, quậy nát chính trị miền Nam: đảo chính TT Ngô Đình Diệm nền Đệ
nhất Cộng hòa, giữ rất dài hạn vai trò quan trọng thứ hai (Đại tướng Thủ tướng
chính phủ VNCH / so sánh ngang hàng với NCK) của nền Đệ nhị Cộng hòa. Bao nhiêu
năm TTK ngậm miệng như hến, thong thả ăn trên ngồi trốc một cách rất êm thắm từ
sau năm 1963. Đến khi miền Nam lâm nguy vào tháng 4/1975, hắn là một
trong những tẩu tướng nhanh chân nhất… Sau suốt 36 năm nín thở qua sông,
tiếp tục ngậm miệng, âm thầm hưởng thụ tài sản đã vơ vét rất kỹ lưỡng từ miền
Nam Việt Nam; bỗng nhiên bệnh “Stockholm” làm hắn đưa cái đầu rùa ra khỏi mu
rùa và tuyên bố này nọ chỉ tổ khai thiệt cái trí thấp của một tên lính đánh
thuê (cho CIA):
“… Dù ‘Cộng Sản’ hay
‘Không Cộng Sản’ thì họ cũng có tinh thần dân tộc yêu nước. Kết án (họ) bây giờ
hẵn có sự sai lầm chăng?”
(TTK – Trong cuộc phỏng vấn của Việt Dzũng trên đài
SBTN tháng
10/2010).
Tiếp theo, TTK hiến kế miễn phí cho dân Việt Nam trong nước cũng
như ngoài nước:
“Đảng cs đang tổ chức họp
đảng và lấy ý kiến của người dân đề thay đổi chế độ. Người dân cứ đưa ý
kiến cho đàng csvn…”(TTK – cùng trong cuộc phỏng vấn của Việt Dzũng trên đài SBTN
tháng 10/2010).
Chỉ qua một hai câu trả lời đã thấy TTK chẳng hiểu cs cái
“son-mother” gì ráo. Các hội đoàn tị nạn cs chớ có dại mời anh đại chướng
óc tầu hũ tương chao (stinking tofu) này làm cố vấn… Nghe lời cố vấn của hắn
thì lần này có thể cả lũ tị nạn phải chạy vượt biên sang đất Mễ mà sống.
Tới đây, tính ra cũng hết đất dung thân rồi… Ở Mễ, chính phủ không nuôi nổi dân
Mễ thì làm sao họ nuôi nổi dân tị nạn csvn…??? (No SSI checks please!)
Phạm Duy (PD)
Bệnh nhân Phạm Duy cũng là con cắc kè loại độc đáo; có “102” (một
không hai). Tất cả các con cắc kè tên tuổi khác như (Nguyễn Cao Kỳ, Đỗ mậu,
Trần thiện Khiêm…) chỉ đổi mầu một lần; riêng con cắc kè PD đổi màu tới lui 2-3
bận lựng! Trước năm 1951 theo Việt Minh (tiền thân của đảng csvn) kháng
chiến chống Pháp, PD đã viết một số bài nhạc hùng ca ngợi kháng chiến (Đường ra
biên ải, Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh,
Nợ xương máu) , những bài nói lên sự bi sự khổ của người dân nghèo theo
kháng chiến chống Pháp (Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo),
Bà mẹ Gio Linh); các bài dân ca kháng chiến (Nhớ người Thương binh, Ru con, và
Nương chiều), PD có sáng tác cả bài chỉ để riêng ca ngợi HCM (Bên ni bên tê) loại
nhạc “Suy tôn Ngô Tổng Thống” ở miền Nam.
Rồi năm 1951, PD bỗng đổi mầu mà không (dám) thông báo trước.
“Dinh tê” về Hà nội, làm việc cho Pháp. Năm 1954 theo làn song di cư vào
Nam chạy trốn cs. Từ 1954-1975 viết, sáng tác rất dồi dào nhờ sự tự do của
miền Nam. PD làm nhiều bài tình cà, trường ca và một số bài ca ngợi sự
chiến đấu chống cộng sản của quân dân miền Nam,
Năm 1975 di tản sang Mỹ tị nạn cs. Trong những năm đầu tị
nạn, PD viết nhiều bài lên án cs với những chữ rất gay gắt: như gọi csvn là “bạo
cường,” “loài quỷ dữ,” gọi thủ đô Sài gòn là thành phố “phải mang tên xác người,”
người ở lại không chạy kịp phải mang “vạn tủi oán…”
Vừa đặt chân tị nạn cs trên đất Mỹ, về hai lần phải bỏ quê hương
ra đi, PD ghi lại trong ca khúc: “54 cha bỏ quê, 75 con bỏ nước” như sau:
Một ngày 54, cha lìa quê hương
Lánh Bắc vô Nam, cha muốn xa bạo cường
Một ngày 75, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương!...
Một ngày 75, con bỏ hết giang sơn
Hai mươi năm tình, yêu người yêu cuộc sống
Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui
Sài Gòn đã chết rồi, phải mang tên xác người
Một ngày 54, cha lìa quê hương
Lánh Bắc vô Nam, cha muốn xa bạo cường
Một ngày 75, đứng ở cuối đường
Loài quỷ dữ xua con ra đại dương!...
Một ngày 75, con bỏ hết giang sơn
Hai mươi năm tình, yêu người yêu cuộc sống
Giờ nơi nước mình niềm đau thay nỗi vui
Sài Gòn đã chết rồi, phải mang tên xác người
Đôi hai lần ta bỏ quê bỏ
nước
Phải nuôi ngày về ôm Tổ
quốc.…
(“54 cha bỏ quê, 75 con bỏ
nước”)
Năm 1978, PD viết về tâm trạng của người dân Việt tị nạn cs tạm
dung ở nước ngoài, và được nhiều người chia sẻ:
Ở bên nhà đôi tay ngà em
vục bùn đen
Ở bên nhà đôi môi mềm thu
vạn tủi oán
Ở bên này sống với ác mộng
Từng đêm ngày anh ra biển
rộng khóc thương em.
(“Ở bên nhà em không còn
đứng chờ đợi anh”)
Một số bài có nội dung chống cộng khác được PD phóng tác phản ảnh
đời sống dân miền Nam sau 30/4/1975 như “Học Tập cải tạo,” “Phụ nữ Sài gòn” và
bài đặc biệt lời bài hát “Độc Lập Tự Do” đã trực tiếp mỉa mai cá nhân HCM, chửi
cái khẩu hiệu long trọng của chính quyền csvn (qua câu nói của HCM) trên các
văn bàn có tính cách quốc gia:
Độc lập là mất Cam Ranh,
Tự do là bán dân mình cho
Nga,
No là cơm độn bo bo,
Ấm là quần rách để thò
Bác ra…
(“Độc Lập Tự Do”)
(“Độc Lập Tự Do”)
Từ năm 1999, cắc kè PD đã có dấu hiệu bắt đầu dọn sân sửa soạn
cho việc đổi mầu lần thứ hai. Năm 2004, khi được hỏi về nội dung lời nhạc
của bài “54 cha bỏ quê, 75 con bỏ nước” thì PD đã trả lời rất lập lờ, mơ
hồ, gần như vô nghĩa chứng tỏ sự “phản tỉnh,” “hối hận” muốn “về cội!” (một
cách nói khác của “đổi mầu…”).
Khi được hỏi về một số lời hát có nội dung chống cộng viết sau
1975 thì PD nói là:
“Tôi làm bài này trong
lúc hoang mang”
Gặp những trường hợp câu hỏi khó trả lời quá thì lấp liếm:
“Tôi quên rồi… thôi
nói lại làm gì”
“Tôi chỉ chống gậy chứ
không chống cộng”
Mặc dù là một nhạc sĩ có tài; sáng tác rất phong phú cả ngàn bài
ca được mọi giới quần chúng ưa chuộng; nhưng vì lập trường chính trị nồi chõ, cộng
thêm đức hạnh lem nhem, đạo đức quá kém cỏi, ăn nói tiền hậu bất nhất như (giả)
điên:
“Làm văn hóa cái con mẹ
gì?”
“Chỉ hát những bài tôi viết
lúc đi ỉa…”
“Cho tôi 10 ngàn đô la để
viết bài ca ngợi HCM thì tôi làm ngay!”
…
Thành ra, ở trong nước cũng như hải ngoại, PD chưa hề bao giờ được
chính thức vinh danh là nhạc sĩ lớn của nền âm nhạc Việt Nam.
PD chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm
2005. Con cắc kè này dù đã có cố gắng lấy
lòng cs bằng cách hết lòng ca ngợi chính sách “hòa giải hòa hợp” của chính quyền
cs, PD vẫn bị văn nghệ sĩ, báo chí lề phải trong nước ganh tị, chỉ trích quá khứ
chính trị của PD. Nói chung, dù đã được cấp “Chứng minh nhân dân,” được
phép mua nhà nhưng chính quyền cs cũng như văn công cs trong nước đối xử lạnh
nhạt với PD. Chỉ có độ 100 bài hát (10%) của PD được phép hát ở Việt
Nam. Bệnh nhân PD không thể nào so sánh với bệnh nhân NCK – NCK được cs o
bế đánh bóng kỹ lưỡng tốn kém hơn…
Đến khi chết ở Việt Nam ngày 27 tháng Giêng năm 2013,
“cây cổ thụ âm nhạc Việt Nam” này không có được một lời phân ưu của các hội Văn
hóa trong nước; chẳng có nhân vật văn nghệ sĩ cỡ “ưu tú nhân dân” nào đưa
đám ma… Nói tóm lại, chính quyền cs đã ra lệnh ngầm là phải làm ngơ trước cái
chết của PD. Chỉ thấy duy nhất một văn
công cs là Phạm Tuyên (con trai Phạm quỳnh, - Nên biết thêm là anh chàng nhạc
sĩ vô liêm sỉ này cố tình quên rằng bố mình bị cs thọc tiết thủ tiêu không tìm
ra xác, đã giả ân giả nghĩa nuốt nhục sáng tác bài hát “bất hủ” “Như có
Bác Hồ trong ngày vui đại thắng!”) viết bài phúng điếu kể công trạng đóng góp của
PD trong nền âm nhạc Việt Nam cận đại.
Nguyễn Hữu Liêm (NHL)
NHL Tự truyện:
(Nguyên văn)
“… Trưa ngày 30 tháng 4,
1975, đeo đu đưa trên chân đáp của chiếc trực thăng cuối cùng rời phi trường Cần
Thơ, trên vai vẫn đeo súng, và vai kia mang túi xách, tôi đã thoát đi trong tiếng
la hét hoảng sợ và cuồng nộ, bắn giết của đoàn quân đang tan vỡ. Trong hai mươi
năm qua, tôi đã bao nhiêu lần về lại Việt Nam. Lần nào bước vào phi trường Tân
Sơn Nhất, tôi cũng vẫn luôn mang một nỗi sợ hãi thầm kín. Không biết là lần này
mình có bị trục xuất hay không? Những ngày còn ở trong nước thì vẫn nghĩ đến
chuyện công an “mời lên làm việc”. Tôi đã như là một đứa con ghẻ trên chính quê
hương mình. Nhưng lần này, tôi về lại quê nhà với một tâm trạng khác. Tôi được
chính thức mời trở lại Việt Nam.
...Ngày thứ ba của Đại hội,
ở cuối phần bế mạc, tôi cùng đứng dậy chào cờ. Bài “Tiến quân ca” được vang cao
trong cả hội trường. Lạ thật. Tôi chưa hề từng nghe Quốc ca Việt Nam (này)
trong khung cảnh thể thức như thế. Từ ấu thơ đến bây giờ, tôi từng hát Quốc ca
của miền Nam, trước năm 1963 thì cùng với bài hát buồn cười “Suy tôn Ngô Tổng
thống.” Ba mươi bốn năm qua là Quốc ca Hoa Kỳ xa lạ, Star Spangled Banner. Nay
thì tôi lại nghe và chào Quốc ca Việt Nam và lá cờ đỏ sao vàng. Con người là
con vật của biểu tượng. Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Tôi cảm nhận được
một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu như là khoảnh
khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực Kundalini. Tôi nhìn lên phía trước,
khi vừa hết bài Quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên
sân khấu, vỗ tay đồng ca bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Tôi nhìn
qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những
người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam! Hồ Chí Minh! Cả
hội trường, và tôi, cùng hân hoan trong tất cả (vẫn là) cái hồn nhiên mà dân tộc
ta đã bước vào từ hồi thế kỷ trước.
...Xin chân thành cảm ơn
tất cả. Ôi hỡi quê hương Việt Nam. Lần này, tôi đã thực sự trở về!
(“Nơi giữa Đại hội Việt
kiều: Một nỗi bình an” của Nguyễn Hữu Liêm - Ngày 27/11/2009)
(hết trích)
(Nguồn: talawas.org)
Bệnh nhân gốc lính VNCH liều mạng đeo càng trực thăng chạy trốn
cs năm 1975, rồi trở thành khoa bảng (Gíao sư, luật sư) trên đất Mỹ này tự mình
khai bệnh trạng “Stockholm” khá đầy đủ. Không cần thiết phải để chuyên
gia chẩn bệnh.
Oái oăm là cái “Nỗi Bình an” mà NHL nêu ra ở đây, ngày trước TT
Nguyễn Văn Thiệu đã gọi là “Bình an của nhà mồ (Peace of grave!!)”
sau khi VNCH thỏa thuận ký Hiệp ước Ba-lê với vc năm 1973…
Thiệt tình… Sao cha nội NHL không “thực sự” trở về VN luôn tìm cách đào ao nuôi cá cho nó biết rõ trắng đen?! Khoa bảng chi chi mà trình độ chính trị còn kém cỏi quá. CS nó xỏ mũi, giựt dây chiều nào cũng xong… hết biết.
Kết luận
Để kết thúc, tôi xin mượn một câu nói của Bác học Albert Einstein gói bài nhận định về “bệnh Stockholm” này:
“Chỉ có hai thứ vô tận: Đó là vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…”
“Two things are infinite: the universe and human stupidity; and I'm not sure about the universe.”
Albert Einstein
Phụ chú:
Trái nghịch với “Bệnh Stockholm” là “Bệnh Lima (Lima syndrome).”
“Bệnh Lima” là bệnh tâm lý của người độc ác bỗng nhiên yêu, thương, có cảm tình với nạn nhân của mình… Trường hợp tâm lý này rất hi hữu và nếu có thực sự xẩy ra đi nữa thì câu chuyện cũng khó lòng thuyết phục người nghe, người đọc (là chuyện có thật!)
Chỉ thấy lác đác một vài trường hợp của “Bệnh Lima” trên các mạng tiếng Việt. Chẳng hạn Đại úy quản giáo cs Nguyễn Văn Thà đã có cảm tình lén lút giúp đỡ tù nhân VNCH trong trại cải tạo cs trong câu chuyện “Ở cuối hai con đường” của ông bạn Phạm Tín An Ninh.
Trần Văn Giang
14 tháng 6 năm 2013
Nguồn: “BM blog”
Tuesday, June 25, 2013
NHỤC NHÃ THAY NỀN BÁO CHÍ CÁCH MẠNG
Trong cuốn "A History of Reading", Alberto
Manguel, nhà văn Argentina, viết:
"Các chế độ độc tài không
muốn chúng ta suy nghĩ, nên ngăn cấm, đe dọa và kiểm duyệt. Trước và sau đều nhằm
mục đích làm chúng ta ngu ngốc và cam phận với sự xuống cấp về sự hiểu biết của
mình. Vì vậy các chế độ này khuyến khích tiêu thụ những thứ rác rưởi. Trong bối
cảnh này, đọc sách báo ngoài luồng kiểm duyệt trở thành hoạt động phá hoại".
Kiểm soát, cắt xén, ngụy tạo
thông tin phục vụ tuyên truyền lừa mị là mục đích của các nhà nước độc tài toàn
trị hay các chế độ chuyên quyền.
Tháng 6 năm 1989, chính phủ
không cộng sản đầu tiên tại Ba Lan được thành lập. Việc đầu tiên mà chính phủ
thực hiện là ngưng toàn bộ hoạt động của cơ quan kiểm duyệt trung ương, vào lúc
bây giờ có tới 465 nhân viên, mỗi năm tiêu thụ hàng tỷ đô la và giải thể hoàn
toàn cơ quan này vào năm 1990.
Nhà nước Ba Lan chỉ còn nắm
giữ hai kênh truyền hình TVP1 và TVP2, bên cạnh khoảng 200 kênh truyền hình tư
nhân khác như Polsat, TVN, TV Puls, Canal +, v.v... Tuy nhiên không có bất kỳ tờ báo nào trong hàng
trăm nhật báo và tạp chí thuộc hệ thống nhà nước.
Nền dân chủ non trẻ cần báo
chí, truyền thông tự do để xây dựng và lành mạnh hoá xã hội. Tất cả sinh hoạt của
cộng đồng xã hội, của nhà nước Ba Lan đều được phản ánh rộng rãi trên báo chí.
Trong hơn hai mươi
năm dân chủ, báo chí tự do tại Ba Lan thực sự là sân chơi, diễn đàn bình đẳng
cho sự cạnh tranh, tranh chấp chính trị giữa các đảng phái, nhưng đồng thời
cũng là vũ khí hiệu quả nhất vạch trần tham nhũng, tội phạm. Trong đối ngoại,
báo chí đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền.
Một nền dân chủ đích thực
không phải chỉ có quốc hội đa đảng, bầu cử tự do mà là phải đảm bảo có báo chí,
truyền thông tự do. Đấy là tiêu chuẩn then chốt, là chân lý.
Bao giờ cho đến... ngày xưa?
Trong thời kỳ Việt Nam bị thực
dân Pháp đô hộ, báo chí tư nhân vẫn được phát hành.
Ngày 15/4/1865 nguyệt san
Gia Định xuất bản tại Sài Gòn là tờ báo quốc ngữ đầu tiên trên toàn quốc.
Tại Nam Kỳ lần lượt phát
hành Nhật trình Nam Kỳ (1883), Phan Yên báo (1898), Nông Cổ Mín Đàm (1901), Nhật
Báo Tỉnh (1905), Lục Tỉnh Tân văn (1907), Nam Kỳ Địa phận (1908), Tân Đợi Thời
báo (1916, sau đổi thành Công Luận báo), Nam Trung Nhật báo (1917), An Hà Báo
(1917, ở Cần Thơ), Đại Việt Tạp khí (1918, ở Long Xuyên), Nữ Giới Chung (1918)…
Một phụ bản của tờ "Lục
tỉnh Tân văn" ở Sài Gòn xuất hiện ở Bắc Kỳ là tuần báo "Đông Dương Tạp
chí", ra mắt ngày 15/5/1913, do F. H. Schneider làm giám đốc và Nguyễn Văn
Vĩnh giữ chức chủ bút. "Đông Dương Tạp chí" tồn tại được 6 năm 4
tháng (1913 - 1919).
Đông Dương Tạp chí có mục
đích chính trị là tuyên truyền cho chính sách bảo hộ của người Pháp, nhưng với
những người Việt Nam cộng tác, thì họ dùng tờ báo để tuyên truyền cho việc duy
tân đất nước và xây dựng một nền văn học mới.
Tháng 7/1917 tờ Nam Phong Tạp
chí do Phạm Quỳnh chủ trương ra đời. Trong bài "Quốc học và chính trị",
năm 1921, ông viết:
“Gầy dựng, tổ chức một nền
tản văn thích hợp với đời nay, và có cốt cách An Nam, vừa có thể cách tân thời
đủ dùng để diễn được các tư tưởng mới, đó là cái cấp vụ hiện nay, mà là cái đường
thứ nhất trong việc gầy dựng một nền quốc học sau này vậy… Nhà văn muốn thờ nước
không có cái phương tiện nào hay bằng giúp cho nước nhà có một nền quốc văn xứng
đáng. Đó là chủ nghĩa của tôi bấy lâu nay, mà là cái tín điều thứ nhất trong đạo
quốc gia của tôi vậy”.
Nam Phong Tạp chí có sự tham
gia của một số cây bút nổi tiếng như Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác), Đông Hồ (Lâm Tấn
Phác), Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), Mân Châu (Nguyễn Mạnh Bổng), Tung Vân (Nguyễn
Đôn Phục), Đông Châu (Nguyễn Hữu Tiến), Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Tương Phố,
Dương Quảng Hàm…
Dù bị hạn chế,
nhưng báo chí tư nhân trong giai đoạn Pháp thuộc đã nói lên được tiếng nói của
người bị trị, góp phần không nhỏ trong việc chấn hưng dân trí.
Ô nhục thay nền báo chí cách
mạng
Báo chí cách mạng là công cụ
của đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), phục vụ cho mục đích cầm quyền của ĐCSVN và
chịu sự kiểm duyệt, quản lý chặt chẽ của ĐCSVN.
Một bộ máy tuyên truyền cồng
kềnh, chi phí tốn kém khủng khiếp cho một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát
thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của
các bộ, ngành, với 17 ngàn nhà báo mang thẻ, cộng thêm đội ngũ dư luận viên,
chuyên gia bút chiến đông đảo và 80 ngàn tuyên truyền viên miệng trên khắp
các tỉnh thành.
Thế nhưng, từ khi
có internet, bộ máy tuyên truyền này bị vỡ toang và phải đối đầu không khoan
nhượng với báo chí lề dân, thông qua các blogs và mạng xã hội.
Bằng con số "có hơn
31,3 triệu người sử dụng internet, chiếm 35,58% dân số (tính đến 11/2012) và
"tổng số thuê bao băng rộng hiện nay đạt gần năm triệu, tổng số thuê bao
3G đạt hơn 3,3 triệu, 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và trung học phổ thông ở Việt Nam có kết nối để truy nhập
internet băng rộng...", Bộ Thông tin - Truyền thông cho rằng "tự do
internet của Việt Nam là sự thật không thể bác bỏ. Hay nói cách khác, Việt Nam
là quốc gia hết sức thân thiện với internet".
Đây là một tuyên bố láo
khoét!
Trước hết, số lượng người sử
dụng hoàn toàn độc lập với sự tự do Internet. Sự phát triển Internet đã không tỷ
lệ thuận với sự tự do sử dụng. Số lượng người sử dụng tăng nhanh, nhưng nhà nước
VN cũng đồng thời tìm cách đánh phá các trang web có các bài viết không đúng với
đường lối chính sách của ĐCSVN.
Nếu không phải là
hung thần của Internet thì làm sao có chuyện tướng công an Vũ Hải Triều khoe
khoang đánh sập 300 trang mạng xấu trong một cuộc hội nghị báo chí năm 2010? Cho tin tặc đột nhập phá hoại
đã trở thành chính sách xuyên suốt. Các trang báo lề dân liên tục bị tấn
công. Mạng xã hội Facebook bị chặn hết sức quyết liệt, người sử dụng vẫn phải sử
dụng công nghệ vượt tường lửa để truy cập.
Nhà cầm quyền đã càn quét,
khủng bố các cây bút tự do. Trong một thời gian ngắn gần đây, gần 40 bloggers bị
bắt giữ, tù đày, trong đó nhiều người nhận mức án tù rất nặng nề, phi lý như Điếu Cày 12 năm tù, 5 năm quản
chế; Tạ Phong Tần 10 năm tù, 3 năm quản chế; Hồ Đức Hoà 13 năm tù...
Việc bắt giam các bloggers Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy
chứng tỏ phản ứng lúng túng, điên rồ của nhà chức trách.
Trong bài "Trận địa
thông tin" trên tờ Lao Động Online ngày 10/01/2013, Thứ trưởng Bộ Thông
tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn đã thừa nhận:
"Tại sao chúng ta có một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh
truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ,
ngành. Có tới 17.000 nhà báo, trong đó có nhiều cây bút có đủ khả năng làm lay
động bạn đọc mà thông tin lưu truyền trong xã hội lại là thông tin từ blog cá
nhân”.
“Lên tiếng một cách đồng loạt, im lặng một cách đồng loạt”, báo chí đang
đánh mất niềm tin của bạn đọc. Và, với việc né tránh những thông tin nhạy cảm,
với việc không được cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời, báo chí đánh mất nốt
thói quen tìm kiếm thông tin của bạn đọc, khi giờ đây, họ “lên mạng”, thay vì
tìm đọc báo. Đây là những sự thật đau lòng".
Khi xã hội bị khủng hoảng
lòng tin, cái Ác lên ngôi thay thế cái Thiện, sự dối trá và vô cảm thành vấn nạn
thường trực, chủ quyền an ninh quốc gia bị đe doạ nghiêm trọng, ngư dân bị xua
đuổi, ức hiếp trên biển Đông, mà báo chí lề đảng cũng chỉ nói đến tàu "lạ",
hoặc "đồng loạt im lặng" trong những ngày kỷ niệm lịch sử chống
Trung Quốc xâm lược, thì bộ máy tuyên truyền có lớn bao nhiêu đi nữa khó mà đảo
ngược thực tế. Người ta đi tìm sự thật ở lề dân.
Lời tự thú của Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn là sự ô nhục của một nền báo chí cách
mạng!
Lê Diễn Đức - Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21/6
Subscribe to:
Posts (Atom)