Mới nghe qua thì rất đáng khâm phục,
vì vị TT nầy đã có ý đem đạo vào đời để giúp cho người đời nhẹ đi phần nào những bon chen tranh chấp,
những bất công, những xa đọa đạo đức trầm trọng của xã hội VN ngày nay. Nhưng
sau khi đọc kỹ bài thuyết giảng thì Lãng Tử tôi cãm thấy vô cùng thất vọng vì
thấy không khác gì những bài viết của bọn “văn nô lề phải” của cơ quan báo chí,
thông tin nhà nước.
Vị TT nầy đem những chuyện “huyền
thoại” trong lịch sử (cái lịch sử truyền miệng, bắt đầu bằng “theo truyền
thuyết xưa kia…” hay “tương truyền rằng…” ..v.v..và .v.v…) đề chứng minh dân
tộc Việt là “anh em ruột thịt” với bọn “tàu phù”.
Trích: Nói về nguồn gốc thì đúng là anh em.
Trung Quốc là anh, Việt Nam là em. Mà theo đạo lý của Á đông “Em phải kính
trọng anh”. Từ xưa đến nay (cả mấy ngàn năm
qua), người Việt Nam luôn có thái độ kính trọng người Trung Quốc...
Thực sự tôi cãm thấy bất bình khi đọc
đến đoạn nói về danh tướng Lý Thường Kiệt của VN ta dưới đây:
Trích: Chỉ
có một lần mà Lý Thường Kiệt hơi hỗn, sau khi
nghe tin ông anh sắp đánh mình, ông đem quân đánh trước, diệt hết tất cả những
hậu cứ làm bàn đạp đánh sang Việt Nam như thành Châu U, Châu Ly, Châu Âm. Còn lại thì đa số ta đều bày tỏ lòng kính
trọng với Trung Quốc…
Thật sự tôi không biết ông TT nầy có
phải là người VN hay không nữa mà lại có một luận điệu bợ đỡ Tàu một cách trân
tráo, sống sượng không còn biết hổ thẹn là gì nữa. Xin hãy đọc bài thuyết pháp
dưới đây của TT Thích Chân Quang post trên website “Tìm hiểu đạo Phật”.
============================================================
Vừa qua, ngày 01/07/2011,
tại khoá tu Thiền của chùa Từ Tân, TT.Thích Chân Quang –
Trụ trì Thiền Tôn Phật Quang đã có bài Pháp
thoại mang tính thời sự với chủ đề BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG với sự tham dự của gần
2000 Phật tử. Tinh thần bài Pháp nhằm un đúc tinh thần yêu nước đồng
thời nhắc nhở, chia sẽ, gợi ý cho mọi người, không ai được chủ quan lơ là trong
việc chuẩn bị tư tưởng và năng lực để đối phó với những hành động bành trướng
bá quyền đang diễn ra như hiện nay của Trung Quốc.
Ai cũng biết, Trung Quốc đã vi phạm Luật biển Quốc tế,
khiến Biển Đông trở nên căng thẳng. Tình hình này đã trở thành mối quan tâm của
những quốc gia bị xâm phạm, đặc biệt của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Và
vì Phật giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc nên Phật giáo cũng góp tiếng
nói của mình trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Tuy rằng, TT.Thích
Chân Quang là một nhà Sư Phật giáo, nhưng những kiến giải Phật pháp đem đạo vào
đời từ tư tưởng văn hóa đến chính trị xã hội thì lại vô cùng sâu sắc, tạo được sự đồng cảm đối với những ai đã
vài lần nghe qua những bài Pháp thoại mà Thượng toạ đã thuyết. Điều này cho
thấy, các nhà tu hành chẳng những không bi quan yếm thế hay trốn đời mà họ rất
yêu thương cuộc đời bằng những hành động dấn thân, hy sinh với tinh thần hướng
thượng. Người đã đưa ý thức sống vượt lên tầm cao thời đại, xây dựng một nền
tảng văn hóa tâm linh cho dân tộc, khẳng định tinh thần giải thoát, vị tha và
nhập thế của đạo Phật trước mọi dòng thời gian.
Thật vậy, liên tiếp trong thời gian qua, chúng ta nghe
nhiều tin không vui là người Trung Quốc anh em với ta, bỗng nhiên tuyên bố rằng
toàn bộ biển Đông này là của họ, rồi thường xuyên xâm phạm vào vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam để đánh bắt cá. Chẳng những vậy họ còn bắt giữ ngư dân,
phá tàu của Việt Nam, tịch thu hải sản và đòi tiền chuộc đối với ngư dân trên
vùng biển đánh bắt của họ (quần đảo Hoàng Sa). Trước hành động ngang ngược của
Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam phải lên tiếng phản đối và nhiều người dân Việt
Nam, nhất là thanh niên đã đổ ra đường biểu tình. Còn dư luận quốc tế thì ủng
hộ Việt Nam.
Trước tình hình đó, Thượng toạ đặt vấn đề “Chúng ta đứng trên quan điểm
của đạo Phật, ta vừa là một công dân Việt Nam, vừa là một người Phật tử thì nên
hiểu vấn đề này như thế nào? nên có thái độ ra sao”? thì hôm nay với đề tài
BIỂN ĐÔNG DẬY SỐNG sẽ gợi mở cho chúng ta nhiều khái niệm dựa trên quan điểm
của đạo Phật.
Mở đầu bài Pháp thoại, đi ngược lại lịch sử bốn nghìn năm
trước, Thượng toạ dẫn chứng câu chuyện Vua Đế Minh (vua Đế Minh là vua của Trung Hoa), cho thấy Trung Quốc và Việt Nam
có mối quan hệ anh em không chối cãi được. Lúc đó vua Đế Minh có
nhiều người con. Con trưởng của ông là Đế nghi và người con thứ là Kinh Dương Vương
hay còn gọi là Lập Tục. Theo truyền thống, Đế Nghi đương nhiên sẽ là Vua nước
Trung Hoa, nhưng ông ngạc nhiên khi thấy người con thứ mới vĩ đại hơn.
Người con thứ này cực kỳ đạo đức, cực kỳ thông minh, đức
độ siêu việt, ai nhìn cũng thương và ông nghĩ rằng người con thứ hai này mới thực
sự là Vua chứ không phải người con trưởng. Thế là ông quyết định bỏ người con
trưởng không lập thái tử nữa mà đưa Kinh Dương Vương lên làm Vua nước Trung
Hoa.
Tuy nhiên, với bản chất hiền lành, nhân hậu, Kinh Dương
Vương biết rằng quyết định của Vua cha sẽ làm anh mình buồn và lòng ông cũng
không tham vọng uy quyền, cho nên một mực khước từ “Xin Vua cha cứ để anh con
làm Vua như cũ, còn con phận làm em, con cũng hỗ trợ anh mình hết lòng, không
có gì trở ngại”. Trước lời nói quá
khẩn khoản tha thiết của Kinh Dương Vương thì Vua Đế Minh quyết định cắt đôi
đất nước Trung Hoa, phân nửa phương Bắc từ hồ Động Đình giao cho người anh là
Đế Nghi, còn hồ Động Đình xuống về phương nam cho tới Việt Nam hiện nay là giao
cho Kinh Dương Vương. Mặc dù kính trọng anh nhưng không dám cãi
lời cha, Kinh Dương Vương đành chấp nhận làm Vua phân nửa nước Trung Hoa từ hồ
Động Đình xuống về biên giới ải Nam Quan. Tuy nhiên thái độ của Kinh Dương
Vương lúc nào cũng nhường nhịn, cũng xem mình là phần em, xem mình như một Chư hầu,
mặc dù trong tâm của Vua cha, thực sự coi trọng Kinh Dương Vương hơn cả Đế
Nghi.
Đến khi Kinh Dương Vương sinh ra Lạc
Long Quân thì người con này cũng nhiễm tinh thần “Nhường nhịn” đó của cha nên không coi trọng Vương quốc
giang sang, cùng uy quyền. Thế là Lạc Long Quân nhân lúc đất nước được thanh
bình nhàn hạ, ông vượt khỏi Trung Quốc về Việt Nam. Ông phiêu bạt lần lần về
vùng Bắc Ninh thì gặp một người nữ chúa, đó là Âu Cơ.
Không ngờ khi đến đây, phải duyên chồng vợ, họ kết thành phu thê và theo truyền
thống mẫu hệ của nhà vợ, Lạc Long Quân phải ở rễ. Lúc đó, ở phía Bắc họ thấy
phương Nam trống, quyền lực không ai cai quản, nên họ chiếm lần lần lấy hết
giang sang.
Người anh lấy hoài mà mấy nghìn năm qua vẫn chưa thỏa
mãn, cứ thòm thèm, vì sao vậy? Xét về mặt tâm thức của Tổ tiên truyền đời
thì tâm thức của Kinh Dương Vương là nhường nhịn, truyền tới người Việt Nam ta
đến bây giờ. Còn tâm thức của vua Đế Nghi thì ông buồn bực còn truyền mãi đến
nay. Nói về nguồn gốc thì đúng là anh
em. Trung Quốc là anh, Việt Nam là em. Mà theo đạo lý của Á đông “Em phải kính
trọng anh”. Từ xưa đến nay (cả mấy ngàn năm qua), người Việt Nam luôn có thái độ
kính trọng người Trung Quốc đàng hoàng, không bao giờ mất cái lễ
này, không bao giờ mất cái đạo lý của người em, tức là về phần người em mình đã
làm đầy đủ bổn phận là luôn kính trọng người anh. Chỉ có một lần mà Lý Thường Kiệt hơi hỗn, sau khi nghe tin ông
anh sắp đánh mình, ông đem quân đánh trước, diệt hết tất cả những hậu cứ làm
bàn đạp đánh sang Việt Nam như thành Châu U, Châu Ly, Châu Âm. Còn lại thì đa số ta đều bày tỏ
lòng kính trọng với Trung Quốc.
Tuy nhiên, theo đạo lý Á đông, anh đối với em thì sao?
Phải yêu thương đùm bọc chứ không có chuyện ỷ làm anh mà ăn hiếp em. Nhưng mà
ông anh Trung Quốc đã mấy nghìn năm qua, luôn làm sai bổn phận của người anh.
Hôm nay ta chính thức nhắc ông anh “Anh đã làm sai bổn phận quá nhiều trong đạo
lý của Á Đông, em lúc nào cũng kính trọng anh nhưng mà anh toàn ăn hiếp em
mãi”. Nên nói về đạo lý, ta không hổ thẹn vì ta đã làm đầy đủ bổn phận mình,
nhưng mà ông anh Trung Quốc yêu cầu xem lại, coi chừng sống trái với di huấn
của tổ tiên từ đời vua Đế Minh.
Đây là giữa Việt Nam với Trung Quốc thôi mới có chuyện
anh em, còn nếu theo Luật pháp Quốc tế thì các quốc gia đều bình đẳng với nhau
hết. Cho dù anh chỉ là một đảo quốc nhỏ như Singapore hoặc anh to như hợp chủng
quốc Hoa Kỳ. Còn trong thương mại và trong trao đổi gì đó, có sự thương lượng
đôi bên đều có lợi thì đó là một chuyện khác.
Tuy nhiên, nói vậy chứ trong cuộc
chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ vừa qua để dành độc lập thống nhất thì Trung
Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Điều này ta không phủ
nhận, thậm chí ta sẽ không có cuộc chiến Điện Biên Phủ oai hùng nếu không có sự giúp
đỡ của Trung Quốc. Lúc đó các khí tài
(lương thực, quần áo, vũ khí, đạn dược) đều là của Trung Quốc, thậm chí Trung
Quốc còn đưa qua nhiều cố vấn về quân sự. Giúp thì giúp nhưng
cái máu buồn bực từ đời vua Đế Nghi truyền xuống chưa hết. Cho nên Tổng bí thư
Lê Duẩn đã báo cáo với Bộ Chính Trị trong một lần ông sang Trung Quốc, ông gặp
Chủ tịch Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông lúc đó ngồi bên cạnh Đặng Tiểu Bình, Mao
Trạch Đông mới nói với Tổng bí thư Lê Duẩn rằng “Đất nước của tôi có năm trăm
triệu dân mà không đủ đất để sống, tôi sẽ mang đại quân xuống chiếm hết Đông
Nam Á”. Đặng Tiểu Bình ngồi một bên gật đầu nói “Đúng như vậy vì người Trung
Quốc không đủ đất sống”.
Tổng bí thư Lê Duẩn cười cười, không nói gì. Sau đó
Mao Trạch Đông mới hỏi tiếp “Nước anh đời nhà Tống, anh đã đánh tôi phải
không?” - “Dạ có”. Rồi “Đời nhà Minh có đánh không?” - “Có”, “Đời nhà Thanh
cũng đánh luôn phải không?” - “Có”. Vậy “Bây giờ các anh có đánh chúng tôi
không?”. Tổng bí thư Lê Duẩn nói “Cũng đánh luôn nếu cần”.
Và sự thực ở biên giới phía Bắc ta đã đánh nhau nhiều
lần. Sau này giữa Việt Nam với Lào, có những cái hiệp ước hợp tác cho nên Lào
với Việt Nam như là một khối với nhau không tách rời được. Thực ra Việt – Miên
– Lào không thể tách rời, bất cứ ba nước này mà tách ra là ta bị nước khác ăn
hiếp liền. Đặc biệt nước Lào
thì cũng lại là anh em với ta, cùng nguồn gốc của mẹ Âu Cơ, nên người Lào rất
giống người Việt Nam. Trung Quốc cũng hỏi Bí thư Lê Duẩn “Đất
nước Lào có bao nhiêu dân”? Lê Duẩn trả lời “Khoảng hai triệu dân”. Mao Trạch
Đông nói “Nước rộng quá mà có bao nhiêu đó, chúng tôi sẽ xuống đó ở”. Thế là
rất nhiều lần người Trung quốc đã đưa người và đưa quân về Lào nhưng vì Lào
trong hiệp ước hợp tác yêu cầu Việt Nam bảo vệ, nên ta đánh bật hết tất cả
những lần Trung Quốc xâm nhập vào Lào. Đó là nói chuyện ân nghĩa đời xưa (đạo
lý), trong thời cận đại, Trung Quốc đã giúp ta rất nhiều.
Bây giờ nói về chính trị. Nếu mà định nghĩa theo chữ
nghĩa thì chính trị là gì đó như chính sách, chính quyền, chính phủ, v.v… nhưng
mà nói về bản chất của chính trị thì thủ đoạn, hơn thua, giành giật lừa gạt,
mưu mô, thậm chí làm điều bỉ ổi nhất nếu cần, miễn dành được quyền lợi cho mình,
hoặc cho đất nước, bất chấp tất cả là vậy. Tuy nhiên nhân quả là nhân quả, đạo
lý là đạo lý. Luật nhân quả lúc nào cũng dành cho những anh hùng quân tử, cho
sự công bằng chính đáng. Thượng toạ minh chứng về cuộc đời và sự nghiệp của các
vị vua đời nhà Trần, đặc biệt là Trần Hưng Đạo. Một con người không đi theo con
đường chính trị thủ đoạn mà đi theo con đường nhân nghĩa, quân tử, anh hùng.
Chính vì vậy đất nước ta đời đời tôn thờ bậc Thánh Trần Hưng Đạo. Cho nên nói
luật nhân quả vẫn công bằng, vẫn dành vị trí xứng đáng đó cho người tốt là vậy.
Đến nỗi trong đạo Phật, chúng ta có Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đã đắc đạo
vậy mà trong dân tộc, ta vẫn xếp hai người đó dưới Trần Hưng Đạo vì cái nhân
nghĩa, cái quân tử, cái anh hùng này.
Phải chăng, chính những người nắm quyền lực cao nhất phải
là người giữ giềng mối đạo đức, đạo lý cho dân tộc, cho loài người. Đừng dại
khờ khi ta nắm quyền lực cao nhất lại là một người thủ đoạn thì sau này sẽ bị
trả giá, lịch sử sẽ phán xét công tội đâu đó rõ ràng. Mà quan trọng là người
dân thờ một vị lãnh tụ của họ, anh hùng của họ trên hai phương diện là công lao
với Tổ quốc và phẩm chất đạo đức của cá nhân người đó. Vì vậy, những người làm
chính trị, quyền lực càng cao thì phải cư xử như một bậc Thánh, đó là yêu cầu.
Yêu cầu của đạo lý không thể nào là khác hơn được. Dù chính trị là thủ đoạn
nhưng mà tình nghĩa vẫn là ngọn hải đăng soi rọi cuộc sống này, làm cho mọi
người ấm lòng, tin cậy và làm cuộc sống có ý nghĩa hơn. Ví dụ bây giờ, khi
người dân họ nhìn lên những người lãnh đạo cao cấp nhất như Tổng Bí Thư, Chủ
Tịch Nước, Thủ tướng, v.v… thì họ mong mỏi gì ở những người đó? Họ mong rằng
những người đó là thật lòng vì dân vì nước, có tài có công lo cho nước mà phẩm
chất đạo đức cá nhân là sáng ngời. Mà chính cái phẩm chất đạo đức cá nhân sáng
ngời đó mới làm cho lòng người yên, dân tin và một lòng theo Nhà nước. Người
lính có thể đổ xương đổ máu, người dân đứng lên có thể sẵn sàng chiến đấu chết
vì màu cờ Tổ quốc, hy sinh cho đất nước này, bởi vì người ta tin được Lãnh tụ của
mình là những người tài đức. Dù yêu nước cách mấy nhưng nếu họ nghi ngờ tư cách
của người Lãnh tụ thì không dám hy sinh, vì sợ sự hy sinh của họ là vô nghĩa.
Mặc dù mọi người vẫn phê bình chính trị là thủ đoạn, là
ác nhưng trên bình diện của Luật Nhân Quả, trong đạo lý thì cái đạo đức, cái
tình nghĩa luôn luôn là chỗ nương tựa của mọi người. Thì bây giờ cũng vậy, trong cái tình nghĩa đối với
người Trung Quốc, người Việt Nam ta đã chọn lối sống là tình nghĩa đạo đức
chứ ta không chọn lối sống thủ
đoạn, mà ta đã bày tỏ sự kính trọng đối với người anh của mình đúng mức trong
nhiều nghìn năm qua, thậm chí ta còn nhường luôn cả một nửa đất
nước Trung Hoa đó cho người anh của mình, nếu nói về lễ, ta không còn gì phải
phân vân.
Hiện nay, mỗi khi
báo chỉ đăng tin là bên Trung Quốc bị sập hầm mõ làm bao nhiêu người công nhân
phải chết, ta nghe vẫn đau lòng giống như người dân Việt Nam mình gặp nạn, rồi
ta nghe bão tố lụt lội gây khốn đốn khổ sở cho người Trung Quốc thì người Việt
Nam ta vẫn bày tỏ một sự cảm thông chia sẻ như là đứt một khúc ruột của mình,
v.v… Đó là cái tình cảm chia sẻ, đồng thời ta cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với
văn hóa của Trung Quốc.
Thật sự trên thế giới này, cái nền
văn minh văn hóa Trung Quốc hết sức là vĩ đại, đến nỗi bây giờ các bộ
phim Hollywood đều ghi lại “dấu ấn của Trung Hoa”, nội cái võ thuật thôi là cả
thế giới bắt đầu học theo. Rồi đạo Nho, là đạo của Khổng Tử truyền dạy thì
nhiều nghìn năm nay, người Việt Nam cũng xem đó là khuôn vàng thước ngọc. Thế là cả một thời gian rất dài,
người Việt Nam chấp nhận cái văn hóa của Trung Quốc là đúng và học một cách hết
sức trân trọng. Người xưa mà thấy có tờ giấy viết chữ Nho là
không dám quăng bậy, phải dùng đi nếu không thì đốt, vì họ chắc chắn rằng trên
đó viết những lời của Thánh hiền.
Mà những lời Thánh hiền cũng là
Trung Quốc, cho nên văn hóa văn minh của Trung Quốc so với Việt Nam lớn hơn rất
nhiều và đôi khi ta nói Trung Quốc như là thầy của Việt Nam.
Những bộ kinh của Khổng Tử để lại vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho đến ngày hôm
nay, nhiều khi người ta chê Khổng Tử phong kiến, nhưng bây giờ xem lại thì
những đạo lý đó không ai có thể bắt bẻ được. Rồi những nhà Nho của Việt Nam
tuân thủ những đạo lý của Khổng Tử thành xương thành máu của mình nên ta đối với người anh Trung
Quốc hết sức là kính trọng, kính trọng cả văn hóa của họ...
Bài thuyết pháp còn khá dài, xin mời vào cái link dưới đây
xem tiếp (nếu còn hứng thú):
Phần cuối của bài giảng ông TT nầy cho rằng:
1. Cho nên, việc mà cha ông ta đã chiếm hết Chiêm Thành, đó là sự công bằng của Luật Nhân Quả
2.
Bác Hồ là người cực kỳ yêu quý đạo
Phật vì bố Bác Hồ (Cụ
Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc) là người có công chấn hưng đạo Phật VN. Vì vậy Nhà nước ta tuy nói là
Nhà nước Cộng sản nhưng thật sự có nguồn gốc tâm linh của đạo Phật.
3.
Một
lời nói chê bai, chỉ trích, gây hiềm khích đều tiếp tay cho giặc. Khi đất nước đang vào cuộc chiến mà ta
làm lạc lòng người, làm mọi người lung lay, không còn sức mạnh để chiến đấu là
có tội lớn với Tổ quốc. (bởi thế theo ông TT nầy: ai mà tham gia biểu tình chống
TC đều là …Phản Quốc)
MÔ PHẬT, CON XIN BÓ TAY !!!!!
Lãng Tử 75