Trong
khi các báo điện tử trong nước, hoặc các blog tư nhân đưa tin nầy thì nhà nước
Cộng Sản Việt Nam (csVN), các chức sắc, Ban Khoa giáo trung ương đảng, Bộ Thông
tin văn hóa, và các chuyên viên của nhà nước CS nín khe. Có
lẽ họ cho lời tuyên bố của Tập Cận Bình là chuyện nội bộ Trung Quốc, csVN không
xía vào. Họ quên rằng từ khi nước Việt lập quốc, Trung Quốc đã bao lần xâm lược
Việt Nam. Hay đó là chuyện thời quân chủ phong kiến,
chẳng liên quan gì đến chế độ CS anh em giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc hiện
nay? Thế thì người csVN cố tình quên rằng
năm 1979, CSTQ thổi kèn trên thế giới và thổi kèn ngoài mặt trận, tràn quân tàn
phá sáu tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam là gì?
Gần đây hơn nữa, ngày 8-6-2014, trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm (05) bằng chứng csVN đã nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Tài liệu nầy được viết bằng tiếng Anh và được Đài Phát Thanh Quốc Tế Trung Quốc (China Radio International -CRI) dịch qua tiếng Việt. Năm bằng chứng đó là:
1) Ngày 16-5-1956, trong buổi tiếp đại biện
lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội là Lý Chí Dân, thứ trưởng
Ngoại giao Bắc
Việt Nam là Ung Văn Khiêm đã nói: "Căn cứ vào những tư liệu của
Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa
là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc". Vụ trưởng Á châu vụ Bộ
Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Lộc còn tiếp lời: “Xét từ lịch sử, quần
đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà
Tống”
2) Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958.
3) Tuyên bố của Bắc Việt Nam ngày 9-5-1965 về việc
quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam, có đoạn viết: "”Việc Tổng
thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển
Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc
quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là khu tác chiến
của lực lượng vũ trang Mỹ", đây là đe dọa trực tiếp “đối
với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng
giềng".
4) Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và
Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên
hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt
là Tây Sa và Nam Sa.
5) Cuối cùng là sách Địa lý lớp chín phổ thông
toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974, trong chương “Nước Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa”, mục “Điều kiện tự nhiên”, ở trang 4, có đoạn viết:
“Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan,
quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa
Trung Quốc. (Hiện nay, Đài loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc
Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với
nền an ninh của Trung quốc, của Viễn đông và miền tây Thái bình dương). (Dân
Làm Báo, trích ngày 13-6-2014) (Xin mời vào Google.com,
dùng tiếng Việt đánh chữ khóa “Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng về
Hoàng Sa và Trường Sa”, thì có nhiều thông tin về vụ việc nầy.)
Việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm bằng chứng csVN nhượng
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc theo trong kế hoạch từng bước
rất lớp lang của đảng CSTQ.
Đầu
tiên, sau khi Trung Quốc cắm giàn khoan 981 ở vùng biển Hoàng Sa và bị dân
chúng Việt Nam biểu tình dữ dội, đồng thời bị nhà cầm quyền csVN lên tiếng phản
đối, thì CSTQ cho người đưa ra công hàm Phạm Văn Đồng (bước thứ nhứt).
Nhà
cầm quyền csVN một mặt cấm biểu tình chống Trung Quốc ở trong nước, một mặt thủ
tướng csVN lên tiếng đòi kiện Trung Quốc để vuốt ve tự ái dân chúng, thì CSTQ
đưa ra vụ sách giáo khoa (bước thứ hai).
Cộng
sản Việt Nam vẫn còn hậm hực, chưa chịu yên, thì bộ Ngoại giao Trung Quốc bồi
thêm đòn thứ ba, đưa ra năm bằng chứng kể trên.
Cách thức đe dọa của Trung Quốc từ từ theo liều lượng nặng dần dần,
và ngang đây bắt đầu có hiệu lực. Trước những
bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ngày 8-6-2014, lần nầy Bộ chính
trị đảng csVN đành im lặng, nhà nước csVN im lặng, quốc hội Việt Nam do đảng csVN
kiểm soát im lặng. Các quan chức cao cấp; tổng bí thư đảng
csVN, chủ tịch nước csVN, chủ tịch Quốc hội csVN, thủ tướng csVN cũng tịnh khẩu,
không nói năng thêm gì nữa. Báo chí trong nước và các web trong nước có lẽ được
lịnh của nhà nước CS cũng im lặng. Thật là một
sự im lặng tuyệt đối từ trên xuống dưới.
Các
nhà lãnh đạo đảng csVN phải im lặng vì há miệng mắc quai, và nếu không im lặng
thì CSTQ chắc chắn sẽ tung thêm ngón đòn thứ tư độc địa hơn nữa. Đó là “Kỷ
yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước”, ký kết tại
Hội nghị Thành Đô (Chengdu), thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan)
vào ngày 4-9-1990, giữa đại diện đảng csVN gồm có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm
Văn Đồng và đại diện đảng CSTQ gồm có Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) và Lý Bằng
(Li Peng).
Hai bên cam kết giữ bí mật nội dung văn bản nầy, nhưng nếu đảng csVN
không tôn trọng những điều đã bí mật cam kết, thì đảng CSTQ không có lý do gì
mà giữ bí mật văn bản nầy nữa. Cho đến
nay, người Việt Nam chưa biết nội dung văn bản Thành Đô, nhưng chắc chắn đảng csVN
đã cam kết những điều gì đó để được Trung Quốc giúp đỡ nhằm duy trì quyền lực của
đảng csVN, dầu có hại cho đất nước. Đây cũng có thể là một văn tự
bán nước sau công hàm Phạm Văn Đồng, vì bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và
thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đều rất thất vọng, chán nản, nhưng chỉ nói
xa nói gần chứ không dám nói thẳng ra. Kết quả là một người bị cất chức, còn
người kia xin từ chức vì không muốn liên hệ đến tội phản quốc.
Có một điều lạ nữa là ngay sau công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao
Trung Quốc, thì khoảng gần 2 giờ sáng ngày 9-6-2014, Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt
(XNBĐĐL) bị cháy nặng nề, tiêu hủy một phần ba (1/3) tòa nhà đồ sộ làm khu văn
phòng, xưởng chế bản, hệ thống máy tính…
Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt thuộc Bộ Quốc phòng csVN, số 14 đường
Yersin Đà Lạt. Trụ sở xí nghiệp nầy được xây dựng năm 1939 và hoàn thành năm
1943 thời còn Pháp thuộc, tường dày, rất kiên cố. Trước năm 1975, đây là Nha Địa
Dư Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Báo chí trong nước đưa tin nầy sáng 9-6-2014, và cho biết thượng
tá Vũ Đình Hợi, giám đốc Cục Bản Đồ Đà Lạt, tuyên bố rằng: “Những tài liệu quan trọng liên quan đến chủ quyền, an
ninh quốc gia đã được chuyển giao Bộ Quốc phòng quản lý... Sau trận hỏa hoạn mọi
thứ vẫn còn nguyên vẹn. Vị trí xảy ra vụ hỏa hoạn là nơi làm việc của nhân
viên, không phải nơi lưu trữ như dư luận đồn đoán…”
Ông giám đốc nói thế là đúng sách vở, chứ không lẽ ông giám đốc
lại thú nhận là đã cháy nhiều tài liệu quý hiếm lưu trữ trong XNBĐĐL? Một câu hỏi được đặt ra là tại sao XNBĐĐL lại cháy ngay
sau ngày Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng bán nước của đảng csVN,
và cháy vào buổi khuya chẳng có người làm việc? Cháy do tai nạn hay do phá hoại? Ai
là kẻ gây ra tai nạn hay chủ mưu phá hoại? Phá hoại để làm gì? Phải chăng phá
hoại nhắm tiêu hủy tài liệu gốc về bản đồ? Liệu những tài liệu gốc về bản đồ
vùng biên giới Việt Nam Trung Quốc và về bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa có bị cháy
chưa? Không ai có thể xác minh điều nầy trừ chính đảng csVN.
Một điều đặc biệt nữa là từ năm 1960, nghĩa là hai năm sau công
hàm Phạm Văn Đồng, và cùng một năm đảng Lao Động (tức đảng csVN) tuyên bố quyết
định tấn công VNCH, thì phủ thủ tướng Hà Nội nhận người do Trung Quốc gởi sang
làm chuyên gia cho Cục Đo đạc và Bản đồ. Hồ sơ lưu trữ thấy có một người tên là
Trương Hồng Kiên làm chuyên gia tại Cục Đo đạc và Bản đồ. Nói cách khác, từ năm
1960, chuyên viên Trung Quốc đã nằm vùng trong Cục Đo Đạc và Bản đồ ở Hà Nội.
Sau đây là giấy chứng nhận của phủ thủ tướng Hà Nội:
Sự
hiện diện của chuyên gia Trung Quốc tại Cục Đo đạc và Bản đồ có liên hệ gì đến
việc thực hiện các bản đồ trong tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và
Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên
hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt
là Tây Sa và Nam Sa? Và có liên hệ gì đến sách Địa lý lớp
chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974 không? Có
chuyên viên Trung Quốc khi XNBĐĐL bị cháy sáng sớm 9-6-2014?
Trở lại với công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc,
thì chúng ta cần tách bạch làm hai phần rõ rệt:
1) Phải thẩm định lại giá trị của các tài liệu nầy,
ví dụ bản công bố nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc từ thời nhà Tống
là điều hoàn toàn phi lý, vì cho đến năm 1974, VNCH vẫn còn quản lý hai quần đảo
nầy. Trung Quốc đem hạm đội đến đánh cướp ngày 19-1-1974. Tập Bản đồ thế
giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại
Hà Nội năm 1972, và sách Địa lý lớp chin phổ thông toàn tập là của Bắc Việt
Nam, chứ không phải của Nam Việt Nam tức VNCH. Trước
năm 1974, Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc tổ chức hành chánh của VNCH và không
bao giờ có tên Tây Sa và Trường Sa.
2) Dù đúng hay sai, bốn bằng chứng sau do Bộ Ngoại
giao Trung Quốc đưa ra gồm công hàm Phạm Văn Đồng, tuyên bố ngày 9-5-1965 của Bắc
Việt cộng sản, tập Bản đồ thế giới năm 1972, và sách Địa lý lớp chín phổ thông
toàn tập năm 1974 của Bắc Việt Nam là chuyện giữa nhà nước csVN Bắc Việt Nam với
Trung Quốc, chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Phải
tách nhân dân Việt Nam ra khỏi chuyện nầy vì nhân dân Việt Nam luôn luôn xem
Hoàng Sa và Trường Sa là di sản do tổ tiên để lại, là lãnh thổ Việt Nam.
Bốn bằng chứng nầy cho thấy Đảng csVN chủ trương bán nước có kế hoạch từ
thời Hồ Chí Minh cho đến ngày nay, và cũng cho thấy rằng HỒ CHÍ MINH
và Đảng csVN chẳng yêu nước mà họ chỉ lợi dụng lòng yêu nước của
nhân dân Việt Nam, hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam nhằm thỏa mãn cuồng
vọng quyền lực của đảng csVN và để phục vụ cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng
sản, mà đại diện là Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Duẩn đã có lần xác nhận với
đám cận thần sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa: "Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”.
Vì vậy, cuộc chiến tranh ba mươi năm (1946-1975) do csVN hai lần
gây ra là cuộc chiến hoàn toàn phi lý, không có chính nghĩa và chỉ là cuộc chiến
ý thức hệ để thiết lập một chế độ độc tài toàn trị, và nhất là nhượng đất, nhượng
biển cho Trung Quốc. Việc csVN nhượng đảo, nhượng biển cho Trung Quốc càng làm
sáng lên chính nghĩa quốc gia, dân tộc và nhân bản của các chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa, dầu các chính thể
nầy chưa được hoàn hảo, nhưng luôn luôn bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ do tổ tiên
để lại.
Trước đây, khi bất cứ ai tố cáo csVN bán nước thì đảng csVN, báo
chí csVN, và cả những người thiên tả, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản
đều phản bác lại, cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền chống nhà nước “cách mạng”
csVN. Bây giờ, với bằng chứng rành rành như thế nầy, thì không còn chối cãi gì
nữa. Vì vậy, đã đến lúc toàn dân dân Việt
Nam phải có thái độ dứt khoát rõ ràng với chế độ csVN vì không thể để cho csVN
tiếp tục phản dân hại nước.
Trước hết, là những người yêu nước đã lên đường năm 1945, đi
theo “cách mạng” vì lầm tin chủ nghĩa cộng sản, lầm tin vào đảng csVN, đã trọn
đời hy sinh vì một lý tưởng xấu, để rồi cuối cùng bị phản bội một cách trắng trợn.
Những tội lỗi của chế độ csVN có phần trách nhiệm của quý vị vì chính quý vị đã
dày công xây dựng chế độ nầy. Xin quý vị
ít nhất vào cuối đời, quý vị hãy lên tiếng để bày tỏ cho con cháu biết rõ sự thật,
giúp con cháu khỏi bị một lần nữa lầm đường lạc lối như thế hệ quý vị năm 1945.
Những thức giả (chứ không phải là trí thức) dưới chế độ csVN hiện
nay, như những sĩ quan quân đội, những giáo sư đại học, những chuyên viên các
ngành, những nhà nghiên cứu, các văn thi sĩ, các nhà bình luận, ký giả báo chí;
xưa nay quý vị lơ là với tình hình đất nước, và làm thinh cộng sinh với chế độ csVN,
nay chắc chắn hơn ai hết, quý vị biết rõ csVN bán nước, hại dân, thì quý vị còn
chờ đợi gì nữa mà chưa ly khai với đảng csVN? Quý
vị tiếp tục cộng sinh với đảng csVN là quý vị tiếp sức cho csVN gây họa cho
tương lai đất nước.
Những sinh viên thiên tả thời VNCH, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng
sản, ở Đại học Sài Gòn cũng như Đại học Huế, biểu tình rầm rộ chống chính thể
VNCH trong thập niên 60 và 70, nay trước những bằng chứng phản quốc cụ thể của csVN,
sao quý vị không xuống đường như thời VNCH, và quý vị cũng chẳng lên tiếng tý
nào, nghĩa là làm sao? Hãy can đảm
tiếp nối hành động cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng, để chuộc lại những lỗi lầm của
quý vị một thời phá hoại nền tự do dân chủ VNCH.
Không ai có thể trách các thế hệ trẻ ngày nay, vì từ năm 1974,
các anh chị em đã bị csVN nhồi sọ rằng Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc, các
anh chị em đâu có biết Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở đâu? Vì vậy giới
du học sinh Việt Nam từ trong nước ra ngoài du học, trong các ngày gần đây đi
biểu tình chống Trung Quốc sau vụ giàn khoan 981, vì lòng yêu nước của anh chị
em, chứ anh chị em đâu có biết chuyện Hoàng Sa và Trường Sa. Các anh chị em
cũng không biết là cái lá cờ đỏ mà các anh chị em vác trên vai đi biểu tình chống
Trung Quốc, chính là lá cờ của chế độ đã nhượng Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc
cho Trung Quốc từ lâu rồi. Các
anh chị em nghĩ sao về các bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra? Anh
chị em hãy thử đặt câu hỏi với các tòa đại sứ csVN về các bằng chứng nầy, và thêm một câu hỏi nữa là tại sao trong nước cấm biểu
tình chống Trung Quốc mà ở Hải ngoại, các tòa đại sứ csVN lại ra lịnh du học
sinh vác cờ đi biểu tình?
Các anh chị em theo dõi, quan sát sự im lặng nhịn nhục của lãnh
đạo đảng csVN trước công bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8-6-2014, chắc chắn
anh chị em đã hiểu nội tình rồi. Các anh chị em đừng để cho csVN lợi dụng làm
con cờ thí cho csVN. Các anh chị
em là những người ra nước ngoài học hành, hiểu nhiều, biết rộng, vậy hãy thức tỉnh
và hãy đoạn tuyệt với csVN ngay từ bây giờ để sau nầy khỏi hối hận. Các
bậc cha chú, các bậc đàn anh của anh chị em đã hy sinh cho một lý tưởng xấu.
Các anh chị em đừng phục vụ cho một chế độ xấu.
Tình trạng đảng csVN ngày nay không còn có thể cứu vãn được nữa.
Cứu vãn cũng vô ích. Chủ nghĩa CS đã bị dẹp bỏ từ mấy chục năn nay ở ngay đất
nước của Marx, của Lenin, của Stalin. Chủ nghĩa CS bây giờ chỉ là cái vỏ bọc của
những chế độ độc tài tàn bạo như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên. Chủ nghĩa CS bây giờ ở Việt Nam chỉ gồm những tên tay sai
của Bắc Kinh từ thời kẻ sáng lập là Hồ Chí Minh. Đã
ký văn tự bán nước thì không còn lý do gì mà chống chế với Trung Quốc.
Nếu còn đảng csVN thì còn làm tay sai cho Trung Quốc, còn những
mật ước giữa csVN với Trung Quốc mà nhân dân Việt Nam không biết đâu mà lường
trước được. Việt Nam chúng ta muốn chấm dứt tình trạng
nầy, thì nhân dân Việt Nam phải xóa sổ chế độ csVN, để chấm dứt những cam kết
bí mật của chế độ nầy với Trung Quốc.
Khi nhân dân Việt Nam không thừa nhận
chế độ csVN, chứng tỏ nhân dân Việt Nam cũng không thừa nhận những cam kết bán
nước của chế độ csVN. Lúc đó, mới có thể nói chuyện đòi đất,
đòi biển trở lại. Đã đến lúc những đảng viện csVN phải đánh giá lại đảng csVN
và ly khai đảng nầy. Đã đến lúc các thức giả trong nước phải đoạn tuyệt với chế
độ csVN để khỏi mang tội đồng lõa với phản quốc. Đã đến lúc thanh niên sinh
viên Việt Nam phải tranh đấu để xóa sổ chế độ csVN để xây dựng một tương lai tười
đẹp hơn.
Đã đến lúc nhân dân Việt Nam phải dứt
khoát hành động! Nếu không, thời kỳ bắc thuộc đen tối đang chờ đợi Việt Nam.
Toronto, Canada