Xin tạm biệt Việt Dzũng, người đã ra đi mang
theo quê hương.......
=====================================================
Trong tôi, sự quyến rũ về Trăng và Đá đến từ trí tưởng lãng mạn qua những huyền thoại dã sử. Hình ảnh những tráng sỹ nhung y gọn ghẽ ngồi mài kiếm dưới trăng, nung nấu ý chí can trường và sẵn sàng nhảy lên lưng chiến mã, lao vào bóng đêm mịt mùng để hoàn thành sứ mạng bí mật, là những giấc mơ rực rỡ, chan hòa suốt tuổi thơ tôi. Ngay cả sau cơn sốt định mệnh làm tê liệt đôi chân mà giấc mơ tráng sỹ mài kiếm dưới trăng vẫn còn tức tưởi. Giấc mơ đó đậm nét đến nỗi mọi ước muốn nào đẹp đẽ, tôi đều gọi chung là “Giấc mơ trăng và đá”. Thậm chí, đôi lúc tôi cảm thấy sự tan vỡ về giấc mơ huyền thoai kia đã làm tôi đau đớn hơn cả những thiệt thòi, cô độc mà một cậu bé bẩy tuổi phải chịu khi ngồi trên xe lăn, nhìn đám bạn cùng tuổi vui chơi nhảy nhót.
Ngày đó, tôi chưa ý thức đủ
những bất hạnh lớn lao khi đôi chân không còn giúp ích gì cho những
phần thân thể khác. Tôi chỉ buồn vì không theo các bạn chạy nhảy, nô
đùa được nữa. Tôi cũng không thấy được ánh mắt thương hại của những
người xung quanh.
Nhưng năm tháng trôi qua,
chiếc xe lăn và cặp nạng gỗ gần gũi với tôi hơn cả cha mẹ, anh chị
em, càng gần hơn bạn bè, quyến thuộc Tôi tự tách rời tới một cõi
riêng lúc nào không hay. Nỗi đau buồn
không lối thoát lăn tròn trong cõi lòng trống trải như những viên đá
cuội lạnh lẽo, vô hồn. Những viên
đá bất lực chờ cơn giông bão cuốn lăn theo sườn núi, rơi xuống thác
ghềnh, trôi ra sông rộng... Tôi nghe thấy bao nhiêu là âm thanh sống động
trên đường đi của đá; những âm thanh lúc khẩn thiết, khi reo vui, lúc
trầm mặc đợi chờ, khi chan hòa hoan lạc....
Âm thanh ám ảnh tôi không
ngừng.
Tôi tìm mua sách nhạc về,
tự học và dành hầu hết thì giờ với cây đàn guitar. Một ngày của
đứa trẻ tật nguyền có quá nhiều thì giờ rảnh rỗi để học những
điều muốn học. Những ngón tay tôi quá nhỏ so với phím đàn, nhưng có
hề gì! Giòng âm thanh cuồn cuộn trong tâm
hồn tôi là sức mạnh vũ bão, bật ra mười đầu ngón rớm máu. Những buồn tủi,
uất nghẹn từ những đường gân rũ liệt ở đôi chân theo âm thanh man rợ,
vỡ ra trên từng sợi giây đàn....
- Vũ Thanh! Vũ Thanh! Con đàn cái gì vậy? Giây đàn
đứt rồi kìa! Trời! Tay con chảy máu nữa!
Mẹ tôi chạy lại, giằng cây
đàn, quăng xuống đất. Mẹ cầm hai bàn tay tôi rớm máu và nhìn tôi
bằng đôi mắt đẫm lệ.
Tôi như người
vừa tỉnh cơn mơ, nhìn xuống đôi tay mình, nhìn giòng nước mắt mẹ
hiền, tôi cảm thấy, không chỉ đôi chân mình rũ liệt mà toàn thân tôi
như đều đã rũ liệt theo...
Tôi ngã vào lòng mẹ, khóc
như con gái.
Từ hôm đó, tôi khám phá ra
nguồn an ủi vô biên là chuyện trò với chính mình bằng thế giới trầm
bổng của âm thanh.
Lạ lùng thay, tôi truyền đạt
dễ dàng những cảm nghĩ, những rung động của mình xuống đôi tay rồi
bật ra trên sáu sợi giây đàn. Ngồi trên xe lăn, trong phòng học, ôm cây
đàn guitar trong tay, tôi say sưa hát. Không,
phải diễn giải cho đúng là tôi say sưa NÓI-BẰNG-NHẠC, mà sáu sợi
giây đàn đã cùng tôi hòa hợp thành âm thanh trầm bổng. Tôi NÓI về
tuổi thơ mình bất hạnh, NÓI về niềm khát khao của cánh chim trời
được vỗ cánh tung bay, NÓI về những giòng nước mắt không thể chảy
khi niềm đau đã tới tột cùng nhức buốt.
Tôi nói dễ dàng, nói miên
man, và những ngón tay tôi chạy trên giây đàn, bật lên những cung tơ....
Tôi đang viết nhạc mà tôi
không biết! Tôi đang mượn âm thanh ghi lại cảm nghĩ mình mà tôi không
hay! Tôi ngạc nhiên thấy cha mẹ quan tâm về những trường canh ghi vội
trên khuông nhạc. Tôi còn nghe thấy loáng thoáng, đôi lần, cha mẹ nói
với nhau về những thiên khiếu tiềm tàng nơi đứa con trai tật nguyền.
Một buổi chiều, chống nạng
đứng ở cuối vườn, tôi bỗng nghe một tiếng chim kêu thảng thốt lạ
thường; rồi bất ngờ, một con chim cu đất bay loạng quạng, té nhào
xuống bên luống cải. Tôi khập khễnh đôi nạng tới thì con chim sợ hãi
chúi mình vào lá rau. Nó không còn bay được nữa. Chắc hẳn nó đã
gẫy chân? Hay nó quá non nớt, chưa bay xa được?
Tôi buông nạng, ngồi bệt trên
nền đất, vừa quơ tay tìm nó, vừa vỗ về: “Không
sao! không sao! để ta băng bó cho”.
Tôi bắt được nó không khó.
Nó run bần bật trong tay tôi. Nhìn mỏ nó, tôi biết không phải nó quá
non mà là đã quá già. Đôi mắt bé tí của nó như có một lớp màng
đục che phủ. Nó đã mù rồi chăng? Tội nghiệp! con chim quá già không
còn bay nổi, đành ngã nhào xuống đất chờ chết!
Tôi còn lúng túng ôm nó
trong tay thì đã nghe thấy tiếng con chim cu đất khác trên cành cây bã
đậu trước nhà như đang thảm thiết khóc bạn. Một lát, nó bay đảo
vòng khu vườn sau, nơi nó biết chim bạn vừa ngã xuống. Nhiều lần như
thế, rồi nó vỗ cánh bay đi. Tôi nghĩ, nó đã bỏ cuộc.
Ủ con chim thương tích trong
vạt áo, tôi mong hơi ấm giúp nó hồi tỉnh nhưng thân thể nhỏ bé của
nó bỗng giật từng hồi. Tôi biết nó sắp chết. Tiếng kêu thảm thiết
của loài cu đất chợt vang động trên cao, Thì ra, con chim mất bạn bay
đi gọi đồng loại tới cứu. Chúng bay rợp cả khu vườn, vừa bay, vừa
kêu thương. Trong tay tôi, con chim già đã hóa kiếp! Nước mắt tôi chợt
ứa ra. Tôi cũng khóc theo bầy chim trên
cây, cùng với chúng, tiễn đưa một linh hồn.
Sau đó, tôi bỏ xác chim vào
một hộp giấy nhỏ rồi hì hục đào đất bên gốc hồng, định sẽ chôn
nó, Nhưng phút giây, mắt tôi đang nhìn chiếc hộp giấy nhỏ, bỗng không
còn hộp giấy mà chợt biến thành chiếc quan tài! Bên trong đó
không phải xác chim mà là xác đứa trẻ bị tê liệt đôi chân!!!
Không!
tôi không muốn khi chết, tấm thân tàn tật này sẽ phải vùi sâu dưới
lòng đất. Tôi cũng thù hận đôi chân vô dụng này, ngay cả khi chết đi
tôi vẫn chưa rời bỏ nó được sao?!?!
Không! khi chết, tôi muốn
được đốt tan thành tro bụi, thoát kiếp tật nguyền, cho tôi hóa thân
thành trăng và đá. Ôi! Trăng và Đá, Giấc mơ thiên thần tuổi nhỏ giờ
trở thành định mệnh khốc liệt trong tôi.
Lửa cháy từ hộp giấy, bén
vào lá khô, lan tới đống củi mục. Lửa reo vui như thiên thần, lửa sôi
sục vạc dầu hỏa ngục...
- Cháy! Cháy! Trời ơi, Vũ Thanh!
Tiếng mẹ tôi gọi giật,
tiếng các em tôi lao xao rồi vòng tay cứng rắn của cha nâng bổng tôi
lên. Nước từ bốn phía tạt vào góc vườn hồng ướt đẫm.
- Con làm gì ngoài đó, hả? hả? Tại sao lửa cháy
rực trước mặt mà con vẫn ngồi yên?
- Con đốt xác chim. Con giúp nó được thành tro
bụi.
Cha tôi giận dữ, quát to:
- Trời! Chính con làm lửa cháy hả? Nếu em con
không thấy khói bốc để cả nhà chạy kịp ra thì con biết điều gì sẽ
xảy ra không? Đốt xác chim? Thật quái đản! Sao con không sống
bình thường được hả?
Tôi ngước nhìn cha. Hình như
có những giòng phún thạch đang chảy rần rần trong máu tôi, chảy ào
ạt, sôi sục về tim, dồn lên não bộ, chực chờ phun lửa!
Có lẽ cha tôi biết đã nói
lỡ lời. Đôi mắt người dịu xuống, nhưng đã trễ. Âm thanh câu nói “Sao con không
sống bình thường được hả?” như những nhát búa tàn nhẫn đập liên hồi trên vết
thương mưng mủ. Tôi gào lên:
-
Sống bình thường, tốt quá! nhưng làm sao? làm sao tôi
sống được bình thường? Giúp tôi đi! các người giúp tôi đi! Bảo đôi
chân rũ liệt này đứng dậy, bước đi đi! rồi tôi sẽ sống bình thường.
Nào! Đôi chân đứng dậy coi!
Tôi chống tay, vùng lên! Đôi
chân khốn khổ gập xuống như tầu lá. Tôi lăn tròn trên nền gạch, Mẹ
tôi bật khóc, nhào tới, nhưng tôi trừng mắt, lạnh lùng:
-
Đừng, đừng thương hại. Cả nhà hãy để tôi yên.
Phút giây đó, dường như toàn
thân tôi biểu lộ sự quyết liệt tột cùng. Mọi người lặng lẽ quay vào
nhà.
Tôi chống nạng, về phòng,
và ngồi lặng suốt buổi chiều cho tới khi căn phòng tràn ngập bóng
tối thì bất chợt tôi cảm thấy như hồn mình bỗng lung linh ánh sáng
huyền ảo của trăng sao. Tôi với tay, lấy cây đàn, bấm bâng quơ vài âm
thanh rời rạc. Âm thể ngũ cung buông rơi lãng đãng quanh phòng mà bóng
tối đang vỗ về một hồn thơ kẻ lạ. Không phải là tôi nữa, vì tôi chưa
bao giờ làm thơ. Vậy mà, tôi đang nghe thấy giòng thơ tuôn chảy trong
hồn. Làm sao tôi bắt kịp cảm xúc này? Làm sao tôi ghi kịp? Làm sao
tôi giữ lại được đây? Mười ngón tay tôi run rẩy, quấn quýt trên sáu
sợi giây đàn. Và âm thể ngũ cung đưa tôi tìm gặp hồn thơ. Tôi nghe
thấy mình hát lao xao theo nỗi bi thương của cánh chim lẻ bạn, hay
chính là sự chia biệt theo lẽ hợp tan của nhân thế:
“Lửa cuồng tim
tháng Hạ
Gọi tên người năm
xưa
Chỉ ta, cùng cõi lạ
Chờ hoài nắng
trong mưa
Chỉ ta, cùng cõi nhớ
Một góc trời rưng
rưng
Áo xiêm ai thuở nọ
Còn ngát dậy
trầm hương
Chỉ ta, cùng cõi vắng
Vết đau hằn trăm năm
Tóc xanh từng sợi bạc
Suối cạn giòng ăn năn
Chỉ ta, cùng cõi khuất
Sương khói mờ chân mây
Quẩn quanh đời vô ngã
Tri kỷ bình rượu
cay
Chỉ ta, cùng cõi chết
Đốm lửa hồng que
diêm
Cành khô dăm nhánh gẫy
Chút tro than vô tình...” (*)
Một trăm hai chục trường canh
ghi vội từ hồn thơ chợt tới, không sửa chữa, không dũa gọt; khi đàn
và hát lên, tôi biết được một điều. Đó là niềm tự tin mãnh liệt, RẰNG TÔI SẼ ĐỨNG DẬY ĐƯỢC Tôi đứng dậy, không bằng
đôi chân mà bằng ý chí quyết đi tìm lại giấc mơ Trăng và Đá, giấc mơ
thiên thần tuổi thơ đã vỡ vụn theo số phận tật nguyền!
Có phải định mệnh đã dành cho tôi một con đường,
như đã dành cho quê hương tôi khúc quanh nghiệt ngã nơi cuối Tháng Tư
Đen, để tôi góp phần mọn mình, ghi lại những trang thống hận.
Rời quê trên chiếc ghe nhỏ,
tôi đã biết đêm và bão tố, biển cả và đói lạnh, nỗi chết và oan
khiên. Là nhân chứng, tôi ôm đàn, chống nạng tới những nơi có đồng
bào tôi trôi giạt về. Bằng âm nhạc, tôi nói với thế giới về người
Việt Nam vượt biển tìm tự do:
“Đêm nằm nghe bão
tố
Tan tác mảnh lòng
đau
Sóng cuồng điên phẫn nộ
Xác con giạt về
đâu?
Đêm nằm nghe dao
nhọn
Rạch nát cùng
châu thân
Vết nhơ hằn tủi
nhục
Hoen ố đời đoan
trinh!
Đêm nằm nghe bóng
tối
Dầy đặc nẻo tương
lai
Đêm nằm chờ thế
giới
Gửi tặng cỗ quan
tài!” (*)
Bằng âm nhạc, tôi hát cho
những người tù trên quê hương:
“Từ Trảng Bom,
Trảng Lớn
Qua An Dưỡng, Hàm
Tân
Thanh Phong, Ca Yên
Hạ
Sống, chết đã bao
lần
Đòn thù, hằn tơi
tả
Huyết thổ từng
bụm tươi
Xương gẫy dăm ba
đốt
Da thịt ghẻ tanh
hôi...” (*)
Bằng âm nhạc, tôi nói với
người bản xứ về một địa ngục bên kia bán cầu. Đó là quê hương tôi
sau cơn hồng thủy:
Từng ngày, dân
chết đói
Từng ngày, tù
chết oan
Từng ngày, người
ra biển
Từng ngày, tình
ly tan...” (*)
Tôi có mặt với cụ già, với
sinh viên, với nững người còn nuôi dưỡng tình yêu Quê Hương, Dân Tộc để
kêu gọi:
“Người đi thôi,
Người đi thôi,
Kìa những lực tàn vẫy gọi
Máu đã loang hồng biển khơi
Mạn thuyền vỡ nát,
Bập bềnh muôn xác nổi trôi
Người đi thôi,
Người đi thôi
Quê nhà xa thẳm
Mẹ chờ trong bóng chiều rơi
Một nắng hai sương
Ruộng cằn sỏi đá
Lúa ngô không mọc,
hoa cỏ nào tươi
Đất mẹ đầm đìa
nước mắt mồ hôi...” (*)
Bằng âm nhạc, tôi cũng hát
lên nỗi thất vọng trước sự hắt hủi, lạnh lùng của thế giới tự do
đối với những đồng bào trôi giạt tới sau lệnh đóng cửa trại tỵ
nạn. Nào là em bé:
“Cha vùi thây chốn
rừng thiêng
Bọn cuồng dâm hại mẹ hiền ngoài khơi
Em bơ vơ giạt xứ người
Chúa ơi! Phật hỡi! Lượng trời ở đâu?”
(*)
Nào là cụ già:
“Lìa quê vì khát
tự do
Quyết không mang nhục ấm-no-ăn-mày
Chỉ mong khi hiến thân này
Thắp lên được ánh lửa gầy trong đêm” (*)
Nào là trại giam, trại cấm:
“Cùng trên trái
đất loài người
Nơi sang tột đỉnh, nơi rơi vực lầy
Rúc chui hang hốc đọa đầy
Ai rao giảng thế kỷ này văn minh???” (*)
Mười sáu năm, tôi tự nguyện
làm nhân chứng về những bất hạnh triền miên của dân tộc mình. Dù
muốn nhận hay không, tôi đã được đồng bào thương mến gọi là “Nghệ
sỹ”. Nghệ sỹ có nhiều địa hạt, tùy ở cơ duyên. Tôi là người nghệ
sỹ được sinh ra để gắn liền với định mệnh của lịch sử, của dân
tộc. Nếu hiểu cho như thế, hẳn khán thính giả của tôi đã nhiều phần
không còn thắc mắc là “Sao nhạc Vũ
Thanh thiếu chất thơ mộng, ngọt ngào mà chỉ chất chứa đau thương, uất
nghẹn”.
Lại càng không ai biết, từ
lâu, tôi giữ cho mình một niềm riêng, rất riêng. Đó là đôi mắt của cô
bé có gương mặt búp bê Nhật Bản. Tôi thấy cô bé thấp thoáng ở hầu
hết các buổi tổ chức có tính cách xã hội, đặc biệt là vấn đề
tranh đấu cho nhân quyền ở Việt Nam. Cô bé làm phóng viên bán thời
gian cho một vài tờ báo. Cô chụp hình phóng sự, viết bài tường
thuật những buổi tham dự. Có lần, tình cờ gặp cô sau hậu trường, cô
nói:
- Lần nào nhìn anh Vũ Thanh đứng hát trên sân khấu
em cũng muốn khóc.
Giọng cô chân thực, vậy mà
tôi suýt nói “Sao vậy? Tại thấy tôi tật nguyền, tội nghiệp quá
hả?” Nhưng tôi đã kịp giữ lại. Tôi
giận mình vô cùng. Từ lâu, tôi đã vượt qua được mặc cảm tàn tật với
mọi người, sao với cô bé, tôi lại để cho mình tủi thân như thế?
Tôi ngượng ngùng khi biết
mình hay ra vẻ tình cờ ghé tới các tòa báo, nơi cô làm việc, nhưng
tới nơi thì lại mong đừng gặp. Điều gì đó,
đang xôn xao trong trái tim hai mươi chín tuổi; nhưng lý trí cứng cỏi
dập tắt ngay chút mơ mộng chưa nhen nhúm. Lý trí bảo tôi
rằng, đừng nhầm lẫn giữa tình yêu và ngưỡng mộ, nhất là với phái
nữ, Tôi biết thế, nhưng đôi mắt trong sáng và gương mặt búp bê của cô
bé vẫn không buông tha,
Một lần, không hiểu các hội
đoàn mời tôi tới buổi họp báo này để làm gì vì chương trình không
thấy ghi có phần văn nghệ. Nhưng quý ban tổ chức, tôi cũng chống nạng
tới và ngồi dưới hàng ghế khán giả. Mắt
tôi không rời bóng dáng cô bé đeo máy hình, nhấp nhô giữa đám đông.
Hình như có lúc cô thấy tôi. Cô giơ máy về phía tôi, bấm, rồi mỉm cười. Trên bục gỗ, chủ
tọa đoàn tường trình sự việc về những tổ chức ma, đang lũng đoạn
sinh hoạt chung với mục đích làm mất chính nghĩa đi tìm tự do của
người Việt hải ngoại. Sau đó, ban tổ chức mời đồng bào hiện diện
phát biểu ý kiến.
Thật không ngờ cô bé là
người đầu tiên bước lên. Cầm máy vi âm, cô nói ngắn và gẫy gọn:
- Tôi thấy thực xấu hổ cho những kẻ lành lặn mà
chỉ bước quanh quẩn trong vòng danh lợi phù du, trong khi có những
người tàn tật không ngớt xả thân phục vụ lý tưởng tự do và đã bước
những bước sâu đậm vào hồn dân tộc.
Cô bé bước xuống trong tiếng vỗ tay.
Mắt tôi cay quá! Và lòng tôi
thổn thức quá!
Tôi có được quyền chủ quan để
nghĩ rằng, lời phát biểu vừa rồi cô đã dành phần cuối cho tôi không?
Nếu có, thì cô bé đã không chỉ nhìn tôi qua lớp hào quang khán thính
giả đã cho tôi, mà chính cô đang thắp ngọn nến nhỏ, khởi từ chính
nỗi bất hạnh tối tăm của một kẻ tàn tật.
Người đốt đuốc đi trong đêm
không phải là người chỉ đi tìm bạn, mà là đi tìm tri kỷ.
Thơ
Nhạc ơi, trái tim đau đớn triền miên của tôi có còn đủ thanh xuân để
lại dệt cho mình một giấc mơ Trăng và Đá?
Việt Dzũng
(*) thơ DT