Đọc những báo cáo của nhà nước và báo chí chính thống, nhìn
những đường cao tốc, những dinh thự ở Sài Gòn và Hà Nội, ta có cảm tưởng là đất
nước đã có những phát triển lớn, gấp mấy chục lần cách đây 30 năm.
Tuy nhiên, đường xá, dinh thự chỉ là bề mặt, không cho thấy
khả năng công nghệ thực của một nước nếu chúng tùy thuộc phần lớn vào ngoại viện
và công nghệ ngoại quốc. Đưa ra những con số về sự tăng trưởng của mình mà
không so sánh với các nước tương tự là một việc hoàn toàn vô nghĩa, nhất là khi
sự tăng trưởng đó tính từ một khởi điểm (năm 1975) quá thấp vì những lý do bất
thường như chiến tranh.
Trong cuộc chạy đua liên tục với thế giới, sự tụt hậu đối với các nước láng giềng sẽ không sớm thì muộn đưa đến lệ thuộc về chính trị. Để đối phó lâu dài với những đe dọa từ phương bắc, Việt Nam phải trở thành một nước công nghiệp giàu mạnh, ít ra là tương đương với Tàu.
Ở Đại hội IX (2001) Đảng CSVN đã đặt mục tiêu Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020, có nghĩa là khi đó công nghiệp
phải đóng góp hơn 50% vào GDP. Hiện thời tỷ lệ này chưa tới 20% và thậm chí
đang xuống dần trong mười năm qua [1]. Dựa vào đà phát triển từ 1975 tới nay,
có hy vọng gì là Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu đó?
Để có một ý niệm xác thực hơn về những thành quả trong sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tôi xin đưa ra vài so sánh giữa Việt Nam
và Hàn Quốc ở thời điểm tương đương trong quá trình xây dựng đất nước. Hàn Quốc
là một thước đo hợp lý cho Việt Nam vì hai nước có những điểm rất giống nhau:
cùng là những nước Đông Á chư hầu của Tàu trong thời quân chủ, cùng thấm nhuần ảnh
hưởng Khổng giáo, cùng hệ thống chính trị – văn hóa. Một dấu hiệu của sự tương
đồng là trong thế kỷ 12, khi những quý tộc Việt đời Lý di cư qua Cao Ly, họ đã
dễ dàng hòa mình vào quê hương mới và chiếm vị thế xã hội tương đương như ở cố
hương [2].
Trong lịch sử hiện đại, hai nước đã cùng trải qua mấy chục
năm thuộc địa: Cao Ly là thuộc địa của Nhật từ 1910 tới 1945, Việt nam là thuộc
địa của Pháp từ 1984 tới 1954. Hàn Quốc được giải phóng sau Thế chiến II nhưng
ngay sau đó trải qua một cuộc chiến tàn khốc, còn Việt Nam sau khi thoát khỏi
chế độ thuộc địa cũng phải trải thêm một cuộc chiến cho tới 1975. Khi hòa bình
tái lập, hai nước đều là những nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế bị phá hủy nặng
nề.
Theo một chuyên viên Hàn Quốc [3], khi chiến tranh mới kết
thúc nước này bị coi là một nước “vô vọng” so với những nước Á châu khác như
Philippines, Thái Lan và Miến Điện: dân trí kém cỏi, gian dối, nhiều mặc cảm, đầu
óc trì trệ, chỉ một nửa dân số có giáo dục sơ đẳng hay hơn. GDP đầu người năm
1960 là 79 USD, lương thực thiếu thốn, cán cân thương mại lỗ trầm trọng (xuất
32 triệu dollars, nhập 97 triệu), cả nước tùy thuộc nặng nề vào ngoại viện,
không có vốn phát triển, tình trạng chính trị – xã hội không ổn định. Ở thời điểm
1953, Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) chưa ra đời, hoạt động của Ngân hàng Thế
giới (World Bank) hãy còn rất hạn chế, và có rất ít nguồn ngoại viện hay đầu tư
ngoại quốc. Nói tóm lại, tình trạng tổng quát của Hàn Quốc năm 1953 có lẽ còn
thảm hại hơn Việt nam vào năm 1975.
Hai lịch sử song song gần như “anh em sinh đôi” của hai nước
chỉ xê xích 22 năm về thời điểm: chiến tranh Cao Ly kết thúc năm 1953, chiến
tranh Việt Nam kết thúc năm 1975. Vậy, tính theo quá trình phát triển thì Việt
Nam 2014 phải ở một vị trí tương tự như Hàn Quốc năm 1992. Ta thử so sánh Việt
Nam bây giờ với Hàn Quốc khoảng 1992 trở về trước vài năm.
KỸ NGHỆ Ô TÔ
1988: Hàn Quốc sản
xuất 1,1 triệu ô tô, xuất cảng 576.134 chiếc xe (83% bán sang Mỹ), sản xuất bộ
phận ô tô trị giá 4,6 tỉ USD (tương đương khoảng 9,2 tỉ USD hiện thời) [4].
2014: Năm 2013 Việt
Nam lắp ráp 40.902 ô tô. Lượng tiêu thụ xe lắp ráp trong nước chỉ bằng 1/3 lượng
xe nhập khẩu. Hiện ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới chỉ thực hiện chủ yếu 3
công đoạn chính là hàn, lắp ráp và tẩy rửa sơn [5]. Một số hãng như Mazda và
Ford đã phải từ bỏ dự án lập nhà máy lắp ráp lớn ở Việt Nam vì nước ta không sản
xuất được bộ phận phụ tùng. Công nghệ sản xuất linh kiện kém phát triển, tỷ lệ
nội địa hóa chỉ đạt tới 5-10% và giới hạn vào các linh kiện kỹ thuật thô sơ như
ắc quy, dây điện, các bộ phận nhựa đơn giản [6].
KỸ NGHỆ ĐÓNG TÀU
1988: Hàn Quốc sản
xuất 27% trọng tải tàu thủy trên thế giới.
2010: Tham vọng
trở thành “cường quốc đóng tàu” của Việt Nam [7] thất bại nặng nề, tập đoàn
đóng tàu Vinashin bị giải thể để lại món nợ 4,5 tỉ USD [8]. Số tiền
này gấp 4 lần gói kích cầu của Chính phủ để phục hồi kinh tế trong cơn khủng hoảng
suy thoái năm 2008, gấp 3 lần tổng mức đầu tư cho chương trình xóa đói giảm
nghèo cả nước [9].
KỸ NGHỆ XÂY CẤT
1989: Hàn Quốc xuất
cảng công trình xây cất trị giá 7 tỉ USD (tương đương khoảng 14 tỉ USD hiện thời).
2014: Việt Nam
chưa nghe nói xuất cảng công trình xây cất nào. Hầu hết các công trình lớn tại
Việt nam hãy còn do các hãng ngoại quốc thực hiện.
KỸ NGHỆ ĐIỆN TỬ
1988: Kỹ nghệ
điện tử (TV, video, computers, lò vi ba, linh kiện v.v.) Hàn Quốc sản
xuất 23 tỉ USD (46 tỉ USD hiện thời), đứng thứ 6 trên thế giới. Xuất khẩu 15 tỉ
USD (30 tỉ USD hiện thời). Những hãng lớn như Samsung, Lucky-Goldstar, Hyundai
đã mở nhà máy ở Tây Đức, Anh, v.v. [10].
Máy tính IBM được xử dụng tại các ngân hàng
trước 1975
(hình ảnh do NĐH)
(hình ảnh do NĐH)
2014: Kỹ nghệ điện
tử Việt Nam chủ yếu là lắp ráp bộ phận ngoại quốc. Không tự sản xuất được linh
kiện.
ĐÓNG GÓP CỦA CÔNG NGHỆ VÀO
GDP
1987: Sản phẩm
công nghệ (manufacturing) đóng góp 30,3% vào GDP của Hàn Quốc [4].
2012: Sản phẩm
công nghệ (manufacturing) đóng góp dưới 20% vào GDP của Việt Nam và có chiều hướng
đi xuống trong mười năm vừa qua [1].
So sánh giá trị gia tăng hàng công nghiệp
chế tạo (MVA) trên đầu người,
Ta thấy Hàn Quốc tiến triển thế nào và Việt Nam ta làm ăn ra
làm sao. (Hình do NĐH chua thêm).
GIAO THÔNG
1990: Seoul có
200 km xe điện ngầm. 1987: Hàn Quốc có 6340 km đường sắt, trong đó 762 km là đường
kép và 1023 km đường điện.
2014: Khởi công
xây tuyến xe điện ngầm đầu tiên (Bến Thành – Suối Tiên) dài 19 km. Về đường sắt,
Việt Nam vẫn dùng hệ thống đường sắt do thực dân Pháp để lại từ 1945, chưa xây
gì thêm. Các ga hầu như không thay đổi, chỉ ngày càng xuống cấp.
GDP
1988: Hàn Quốc đạt
GDP/đầu người 4466 USD (khoảng 9.000 USD hiện thời), bằng 22% Mỹ, đứng thứ 49
trên 166 nước [11]. Năm 1992, GDP Hàn Quốc lên đến 7527 USD (khoảng 15.000 USD
hiện thời).
2012: Việt Nam đạt GDP/đầu người 1596 USD, bằng 3% Mỹ, đứng
thứ 131 trên 177 nước [11].
VĂN HÓA – XÃ HỘI
2014: Người Việt
Nam bị nhiều tiếng xấu ở ngoại quốc về nạn ăn cắp vặt, một số cửa hàng Nhật phải
cảnh cáo bằng tiếng Việt. Nhân viên Hàng không Việt nam bị bắt vì tội ăn cắp,
buôn lậu. Nhiều hãng ngoại quốc đầu tư xây nhà máy ở Việt Nam quan tâm về việc
công nhân ăn cắp link kiện. Tình trạng người Việt ăn cắp diễn ra ở khắp mọi
nơi, ở công sở, ở công ty, nơi công cộng, siêu thị, điểm du lịch… Năm 2013, khi
Đại sứ quán Hà Lan phát tặng áo mưa miễn phí, dân chúng đã chen lấn, chụp giựt
để lấy thật nhiều khiến buổi phát tặng phải hủy bỏ. Những cảnh tranh lấn hái
hoa, cướp lộc ở các lễ hội xảy ra thường xuyên. Ý thức về môi trường yếu kém, tật
xả rác thịnh hành, hình ảnh du khách ngoại quốc đi nhặt rác giùm ở các thắng cảnh
trở thành quen thuộc [12].
1992: Dân Hàn Quốc
đã đạt tới trình độ văn hóa không kém gì các nước văn minh tiến triển nhất trên
thế giới.
THỂ THAO
Năm 1988, chỉ 35
năm sau khi chiến tranh Cao Ly kết thúc, Hàn Quốc tổ chức thành công rực rỡ Thế
vận hội Seoul với 159 nước tham dự. Hàn Quốc được 12 huy chương vàng, đứng thứ
tư sau Liên Xô, Đông Đức và Mỹ.
Năm 2014, 39 năm
sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đăng cai tổ chức Á Vận Hội (có
45 nước thành viên), nhưng phải hồi lại vì không đủ sức.
KẾT LUẬN
Từ một hoàn cảnh hậu chiến vô cùng thảm hại, với nguồn nhân
lực không hơn gì Việt nam và trong tình hình thế giới khó khăn hơn, Hàn Quốc đã
được lãnh đạo đúng đường và trở thành một nước công nghiệp tân tiến trong vòng
40 năm, dư thừa nội lực để đối phó với Tàu.
So sánh lịch sử phát triển của Việt Nam và Hàn Quốc, không
thể tránh kết luận là ta đã tụt hậu quá xa hoặc đã đi lạc đường. Một nước Việt
Nam công nghiệp tân tiến có vẻ như đã trở thành một ảo tưởng không bao giờ thực
hiện được. Sự thua kém láng giềng sẽ càng ngày càng trầm trọng và sự lệ thuộc
ngoại bang sẽ trở nên tuyệt đối.
Không cầm cự được với kẻ địch bằng công nghệ và kinh tế thì
sẽ phải cầm cự bằng xương máu. Tuy nhiên, hy sinh xương máu của dân chúng và
binh sĩ để giữ gìn tự chủ thì cũng chỉ có thể tạm trì hoãn một tương lai u tối
không thể tránh khỏi. Điều mâu thuẫn nguy hiểm là quá nhiều dân chúng cũng như
lãnh đạo tỏ ra tự hào và tự mãn với những thành tích của mấy chục năm qua.
GHI CHÚ
1. Vũ Quang Việt,
http://boxitvn.blogspot.com.au/2014/03/viet-nam-khong-at-muc-tieu-tro-thanh.html,
lấy nguồn từ Asian Development Bank: Key Indicators for Asia and the Pacific.
3. Ji Hong Kim (Korea Development Institute), Korean
Economic Development Strategy.
10. AM. Savada, W. Shaw, ed. (1992) South Korea: A Country
Study, 4th Edition. Federal Research Division, Library of Congress.
12.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140326/tiep-vien-hang-khong-viet-nam-bi-bat-tai-nhat-vi-nghi-buon-lau-do-an-cap.aspx;
http://www.tin247.com/mot_tiep_vien_vietnam_airlines_bi_bat_giu_o_uc-1-21470478.html;