Chương Khuê
(Danlambao) - Ở đây vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, hằng năm cứ mỗi độ
bất chợt nhìn mấy cây phong chỉ còn lác đác những chiếc lá vàng cuối cùng, tôi
lại liên tưởng đến những chú gà tây trần truồng nằm đè lên nhau nơi quầy thịt
trong siêu thị.
Mới ngày nào tay xách tay ôm, ngố ngáo vợ yếu con thơ chạy nạn,
sa được vào lòng bao dung của những người không phải là đồng bào, của đất nước
chẳng phải là tổ quốc mình, nay đã mười lăm mùa lá vàng rơi, mười lăm Mùa Lễ Tạ
Ơn.
"Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình". Xin trộm phép
cụ Nguyễn Du sửa lại chút lời cô em gái nàng Kiều thuở trước, mười lăm năm ấy
biết bao ân tình, gia đình tôi nhận được.
Như trận mưa rào, làm sao tôi đếm đủ từng hạt mưa rơi xuống khắp
thân châu trong cơn nóng khát lã người. Từ gia đình ông bà bảo trợ:;những người
đến trước; những viên chức sở Xã Hội; Y Tế; nhà thờ; thầy cô giáo dạy ESL và
những lớp học khác sau này; những cô cậu sinh viên Mỹ đồng môn; những người
trên đường phố, trên xe bus, trong cửa chợ, nơi công sở, bệnh viện, hãng xưởng
v.v...
Một trong những hạt mưa ân tình đậm mãi vào hồn tôi là hình ảnh
cô giáo tóc vàng tươi cười và vẻ rất thân ái đứng sẵn nơi cửa trường chờ đón
cha con tôi buổi sáng đầu tiên cháu nhập học mẫu giáo trường Tiểu Học
Hawthorne, thành phố Everett. Cậu bé không chịu theo cô vào lớp, và cứ níu lấy
quần ba. Sau nhiều lần bị cậu học trò "lạ mặt" hất tay ra, cô giáo ôm
siết lấy con tôi và ra dấu bảo tôi về đi. Tôi vội vã, không dám quay đầu lại;
vừa nghe tiếng gào thét của con, vừa tội nghiệp cô giáo đang chịu trận với hàm
răng sâu của nó từ quê nhà mang sang chưa kịp đi nha sĩ. Chẳng hiểu cô đã
"hóa phép tiên nữ" thế nào với đứa học trò màu tóc da lạ hoắc, ngôn
ngữ bất đồng, lại chẳng được thơm tho mấy, so với bầy trẻ mũi lõ mắt xanh trông
"đẹp như thiên thần" kia để sáng hôm sau cậu qúy tử đã vội vàng buông
tôi ra và mau mắn bíu tay cô vào lớp. Nhờ vòng tay "cô như mẹ hiền"
ấy, con tôi đã bước tiếp được êm ả con đường học vấn cho đến hôm nay đang là
cậu sinh viên năm thứ hai của University of Washington. Một ngày nào khi con
tôi đã "thành tài", cha con tôi sẽ tìm gặp lại cô giáo đầu đời của
cháu, dù ngày đó không đúng vào dịp Lễ Tạ Ơn.
Dịp Lễ Tạ Ơn, từ ngày được náu thân trên nước Mỹ, năm nào tôi
cũng hướng lòng mình một cách riêng về người và xứ sở đã từ ái bảo bọc gia đình
tôi trong cơn họan nạn. Không có nơi dung thân này, gia đình tôi chẳng còn
đường nào khác hơn là phải tiếp tục chịu trận cuộc đời lưu đày trên chính quê hương
mình; với hoàn cảnh bản thân, chắc chắn, các con tôi rồi sẽ "không lớn
thành người".
Tôi cũng đã không thành người được, nếu như cách đây hơn nửa thế
kỷ người và đất Miền Nam đã không mở rộng vòng tay cưu mang một triệu dân từ
Miền Bắc Nước Việt trong đó có gia đình tôi. "Thành người" với một
tiêu chuẩn khiêm tốn nhất, là còn phân biệt được đạo lý tổ tiên, Trời Đất, với
thứ lộng ngôn hóa ma ám quỷ... "yêu biết mấy khi con học nói tiếng đầu
lòng con gọi xít ta lin; thương cha thương mẹ thương chồng, thương mình thương
một thương ông thương mười; thằng trời đứng xuống một bên để cho nông hội đứng
lên làm trời; ta đánh mỹ ngụy là đánh cho liên xô...";
"Thành người" là không thành loại người lôi mẹ cha, kẻ
vô tội, người thi ân cho mình xưa nay ra quỳ trước sân đình làng, phùng mang
trợn mắt chỉa chỏ đấm đá đay nghiến hỏi mày có biết tao là ai, là thứ văn hóa
"mới" hơn cả "văn hóa" phường đâm cha chém chú...
*
Quê tôi nép mình bên dòng sông La, thừa hưởng chút hơi hướng gần
xa của những bậc tiên sinh Cao Thắng, Phan Đình Phùng, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn
Công Trứ, Nguyễn Du... Làng Yên Phú, không biết đã từng có một thời vàng son
nào như ý nghĩa cái tên làng, nhưng thế hệ anh em tôi từ lúc chào đời đến ngày
sang được bên kia bờ vĩ tuyến 17, có được mấy ngày bình yên và những chén cơm
trắng. Bom đạn Mỹ và gươm súng Nhật. Trận đói Ất Dậu. Thực dân Pháp trở lại
Đông Dương. Tiêu Thổ Kháng Chiến. Cải Cách Ruộng Đất. Đấu tố, và lũ lụt hàng
năm. Làng tôi có bãi cát ven sông, nơi vẫy vùng tuyệt vời cho bọn trẻ, nhưng
mấy khi được thả cao cánh diều. Ban ngày họa hoằn mới vắng bóng khu trục cơ và
máy bay Bà Già quân Pháp. Mọi sinh hoạt phải trong đêm.
Mẹ tôi, những đêm không trăng, với gồng gánh trên vai, phải mò
mẫm từng bước chân xuống bến đò cách nhà khoảng chừng cây số, đi nhóm chợ bên
kia sông, và trở về trước lúc trời sáng. Có những lần chợ về, bà hớt hãi chạy vào
nhà, khi thì nói vưà bị một bầy lợn con bỗng dưng hiện ra rượt theo bà rồi biến
mất; khi thì bảo thấy một đám người mặc đồ trắng xoá chân đi không vướng đất
lởn vởn trước mặt. Những chuyện đại loại "ma nhát" đều xảy ra khi đi
ngang qua khu vườn hoang ông Bát Ẩm. Khu vườn này chỉ cách nhà tôi vườn người
bác ruột kế bên. Theo kể lại, nơi đây trước kia là bãi chiến trường giữa Trang
Hét và lính Tây. Trang Hét là tên hai ông Trang và ông Hét được linh mục Đậu
Quang Lĩnh vốn người làng Yên Phú, lúc đó đang đứng đầu một tổ chức kháng chiến
chống thực dân Pháp từ miền Nam phái về quê ngài để vận động những nhà giàu
đóng góp tiền của nhằm việc mua vũ khí. Chẳng may, khi vừa đến ở trong nhà ông
Bát Ẩm thì bị lộ tông tích và quân Pháp đến bao vây kêu gọi ra đầu thú. Hai ông
Trang Hét đáp trả bằng những tràng đạn. Cuộc giao tranh rất dữ dội khiến quân
Pháp chết và bị thương rất nhiều (Cha tôi nói nghe rất nhiều tiếng la hét rên
rỉ của thương binh Pháp lúc họ được đưa xuống tàu thuyền đang cặp bến trước nhà
tôị), mà vẫn không diệt được Trang Hét; Pháp đổi chiến thuật, cho người bò vào
đốt nhà. Khi tiếng súng yên, người ta thấy xác hai người cháy đen trong tư thế
chỉa súng vào đầu nhau.
Cha tôi xuôi ngược trên nước sông La với chiếc thuyền gỗ chở
thuê những hàng hoá như khoai sắn, cam, bưởi, lúa, ngô tùy theo mùa. Cũng đầy
nguy hiểm. Có lần anh em tôi được đi theo thuyền và tưởng đã chết trôi mất xác
khi bị tàu bay Pháp bắn xuống thuyền (may mắn bỏ thuyền bơi lên bờ kịp và chui
trốn giữa những hàng... khoai lang). Có lẽ do một phần anh em tôi còn quá nhỏ,
phần bởi bận việc mưu sinh, hay vì lý do nào khác, cha tôi không bày tỏ tâm sự
với con cái, nhưng đôi lúc qua chén rượu, ông đã để lộ nỗi tiếc nuối về một quá
khứ nho phong nào đó...
Còn anh em chúng tôi, trường làng không có, phải băng qua đồng
ruộng hoang vắng, qua nghĩa trang rờn rợn đến trường xã cách xa hàng cây số,
dưới lúc mưa phùn gió Bấc, lúc ánh sao đêm, và ngồi học với ghế bàn xập xệ bên
ngọn đèn dầu hiu hắt của ai nấy mang theo; sinh hoạt tuổi thơ là "tranh
thủ" đào hầm trốn bom dưới gốc cây các quanh vườn ("các", tên
một loại cây cao to, có trái lấy hột để làm dầu gì đó mà nay tôi cũng không còn
nhớ), là "chuyên ngành" hát múa "Ai yêu bác Hồ bằng các em
nhi đồng; Dân Liên Xô trên cánh đồng hoa; Mặt Trời Đông; Kết Đoàn..." Có
lần trong giờ khoa học, vào lúc tờ mờ sáng, thầy giáo bảo cả lớp ra ngoài sân
kiếm mỗi đứa hai cây que làm thành đôi đũa, rồi theo thầy đi ra đồng bắt vi
trùng vưà do tàu bay Pháp thả xuống lúa đêm qua; với kết quả "đạt chỉ
tiêu" là tiếng nhao nhao "con nỏ chộ chi mô cả" (con không thấy
gì cả) của bầy học trò...
Tàu bay Pháp ngày càng bắn phá nhiều hơn xuống những làng trên,
xóm dưới và phía bên kia sông. Thỉnh thoảng lại có xác người chết trương sình
trôi lềnh bềnh ngang qua, hay tấp vào bãi cát trước nhà tôi. Chị Thái con dì
Đức trên chuyến đò về chợ ngang qua sông bị bắn chết, còn may thuyền không chìm
để người nhà còn đem xác chị ấy về trên cái võng ngập máu. Chú Nam con ông bà
Thông Bình thì mất xác trên đường dân công tận chiến trường Điện Biên Phủ.
Người ta đang bàn tính chuyện dân làng phải tản cư thì tự nhiên
vắng hẳn tiếng tàu bay. Tin chiến thắng Điện Biên được loan truyền. Chiến tranh
chấm dứt, chúng tôi đươc đi học ban ngày, được tự do thả diều, và tha hồ vật
nhau ngoài bãi cát có cây đa và cây ngô đồng.
Niềm vui đất nước hết chiến tranh đến chưa được bao lâu thì thấp
thoáng không khí bất an. Bộ đội kéo về làng và chia từng nhóm dăm ba người đến
ở trong hầu hết nhà dân. Ngoài đường xuất hiện những băng vải ghi "Thi
Đua Phát Động Phong Trào Cải Cách Ruộng Đất". Đám nhi đồng chúng tôi
liên tục tập nhảy "Kết Đoàn" và "Dân Liên Xô"
để trình diễn trên sân khấu dựng ngòai trời mà từ trước đến giờ chưa hề
có.
Làng Yên Phú nay đang đang diễn ra những điều mới lạ khác. Bà Cu
Ước trong đám nghèo nhất làng khoe với mẹ tôi, rằng bà ta cùng một số người nữa
đang được mời lên xã học tập đấu tố, và bà ta sẽ được chia phần "qủa
thực" (tài sản tịch thu của địa chủ). Mẹ tôi dặn anh em tôi khi ăn cơm
không được nhắc đến tiếng "cá , thịt, bò, gà, lợn" mà phải gọi bằng
tên rau này dưa kia; trong bữa ăn, mặc dầu đã kiểm soát kỹ các cửa ngõ đã được
đóng kín, thỉnh thoảng ông tôi buông chén đũa đi mở hé cửa quan sát bên ngoài.
Những cuộc thăm viếng chuyện trò giữa người lớn với nhau nay không còn thoải
mái vui cười như trước, mà trong vội vả xầm xì âu lo...
Tin những người quen và không quen đã bị bắt bị đấu tố dồn dập
từ những làng khác. Tin Dì Bang trong Hà Tĩnh vừa chết trong tù sau trận đấu tố
càng khiến mẹ tôi nhất quyết không nghe theo tiếng loa ra rả kêu đi xem đấu tố.
Đã 50 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ rõ ánh mắt hãi hùng của mẹ tôi khi bị du kích
đến nhà dọa nạt bắt mẹ và tôi lúc đó đang co ro bên bếp lửa, đi xem đấu tố ông
Phó Tư, ông Lý Thưởng... (Sau khi đấu tố ông Lý Thưởng khá lâu, hỏi hoài phần
"quả thực" mà không được chia, bà Cu Ước đến phàn nàn với mẹ tôi, và
tỏ ra hối hận đã nghe theo lời cán bộ tố cáo ông Lý Thưởng những chuyện không
hề có).
Lệnh ban ra nghiêm cấm chúng tôi không được chơi với con nhà địa
chủ nữa. Anh em thằng Long con ông bà Tổng Thái trắng trẻo béo tốt hôm nào nay
áo quần lếch thếch mặt mày xanh xao lem luốc, treo trước ngực thùng kẹo gừng đi
cùng làng chẳng mấy ai dám bất chấp lệnh cấm mua giúp anh em nó vài cục... Bọn
tôi mỗi lần thấy anh em thằng Long cũng không dám lại gần vì sợ bị báo cáo lẫn
nhau.
*
Viết để tạ ơn ai, mà tôi cứ dông dài về tôi, về làng tôi ở tít
mãi xa xăm "chốn vạc bay" nào đó. Thực ra, có lần mò trở về như thế
tôi mới nhận rõ hơn được công ơn người đã đưa anh em tôi thoát khỏi phần đất tổ
tiên xưa, nay bạc phước lọt vào tay bầy qủy dữ đang ra công biến thành địa
ngục, và sau này là công ơn trời bể người và đất Miền Nam đã cưu mang dạy dỗ
chúng tôi thành người.
Xin tạ ơn chuyến đò bà Phương đêm khuya đã lén lút chở gia đình
tôi trong nỗi ngậm ngùi ly hương trốn khỏi làng Yên Phú tang thương để tìm
đường xuôi Nam.
Tạ ơn con Vện nhà bác tôi bên cạnh đêm đêm nằm ngoài thềm, hôm
ấy nó đã không sủa đánh thức mấy người bộ đội ở trong nhà bác khi sáu người lớn
bé chúng tôi tay xách tay mang, lục đục ra khỏi nhà dưới bóng trăng chập chờn
bởi gió đong đưa cành lá.
Tạ ơn dòng nước sông La đã đưa êm ả thuyền đi.
Tạ ơn đêm Quảng Bình, người đã chia bớt phần khoai lang và cho
mượn nong nia làm giường chiếu qua đêm.
Tạ ơn chiếc cầu Vĩ Tuyến đã đưa ta sang được bến bờ Tự Do.
Nói sao cho đủ lời tạ ơn người, tạ ơn đời.
Thôi thì, nhân Mùa Lễ Tạ Ơn, xin mượn lời - "Thank You
America, Thank You The World",
Và nhất là - Tạ Ơn Người Miền Nam, Đất Trời Miền Nam Nước
Việt đã cưu mang và giáo dục anh em tôi thành người đúng nghĩa và hưởng đầy đủ
quyền của một con người.
Mùa Tạ Ơn