Cuộc chiến tranh giữa Tự Do và Cộng Sản bằng súng đạn đã chấm dứt hơn 30 năm, nhưng vết thương vẫn còn rướm máu, mặc dầu bản thân đã có ý muốn chôn vùi quá khứ đau buồn để hướng tới tương lai. Những gì tôi sắp sửa trình bày dưới đây không hề có ý định làm tấy lên vết thương cũ. Vì dù sao, Trịnh Công Sơn đã trở về với Cát Bụi.
*
Sau khi tình hình chiến sự Tết Mậu Thân 1968 Đợt
I đã lắng dịu, Đại tá Lưu Kim Cương phái phi công Nguyễn Quí Chấn bay ra Huế
đón Trịnh Công Sơn vào Sài Gòn. Tôi gặp lại Sơn tại Câu lạc bộ Mây Bốn Phương
trong căn cứ Tân Sơn Nhất sau hơn 5 năm xa cách. Hồi tôi gặp Sơn lần đầu tại
trường Sư phạm Quy Nhơn, Sơn chưa nổi tiếng. Thật đáng mừng cho Sơn đã may mắn
thoát khỏi sự lùng kiếm của Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu lúc bấy
giờ Sơn bị sa vào tay của hai nhà cách mạng Xuân, Tường có thành tích “phủ khăn
sô lên đầu dân Huế” và bị dẫn lên núi theo chân Lê Văn Hảo hoặc bỏ xác nơi Bãi
Dâu, thì chắc chắn sự nghiệp sáng tác nhạc của Sơn sẽ không có “bề dày” như vào
thời điểm 1975. Phải chăng Trịnh Công Sơn thoát khỏi bàn tay Việt Cộng là nhờ
được hưởng phúc đức từ bà mẹ nổi tiếng thờ Phật kính Tăng mà người dân Huế nào
cũng biết?
Từ sau ngày gặp lại Sơn, tôi thường lui tới
chơi với Sơn tại ngôi nhà nằm trên đường Công Lý, đối diện Chùa Vĩnh Nghiêm.
Sơn là người hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ. Mặc dầu là người có tài và có tiếng
tăm, nhưng Sơn khiêm tốn, chưa bao giờ tôi nghe Sơn bình phẩm hay chê bai nhạc
sĩ khác. Tôi từng lái máy bay chở Sơn ra Phú Quốc uống rượu với bạn Nguyễn văn
Mãng (Thiếu tá Quân Cảnh), Phạm Thọ (Trung tá Hải Quân); lên Đà Lạt thăm chị
Sâm vợ anh Tốn; ra Huế nhậu với bạn hữu của anh chị Hồ Đăng Lễ. Qua Sơn, tôi
giáp mặt với các nghệ sĩ khác như Trịnh Cung, Đinh Cường, Bùi Giáng, nhà báo
Phùng Thị Hạnh, Trùng Dương, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống, điêu khắc gia Lê
Thành Nhơn, Bửu Tôn … Ngoài ra, còn có Bửu Ý từ Huế vào tá túc ở nhà Sơn để
lánh nạn… đi lính!
Bạn bè nào cũng quý mến Sơn, ngay cả những người
lính đang ngày đêm hy sinh mạng sống của mình để cho bọn ngụy hòa như ni sư Huỳnh
Liên, thầy chùa Nhất Hạnh, giáo gian Nguyễn Ngọc Lan hoặc bà Ngô Bá Thành được
quyền biểu tình, lên tiếng đòi chấm dứt chiến tranh.
Tôi kể cho Sơn nghe câu chuyện của ông anh tôi
- Đặng Văn Châu, Giám đốc Đoàn hoa tiêu (pilotage) sông Sài Gòn kiêm Giám đốc
trường Hàng Hải thuộc Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ - là người rất ái mộ Sơn, nhân
chuyến đi công du Pháp quốc tình cờ gặp cô cháu gái từ Hà Nội sang tu nghiệp tại
Âm Nhạc Viện Paris. Hai chú cháu mừng rỡ khôn xiết. Anh Châu tôi bèn lấy ra hai
cuộn băng cassette nhạc của Sơn để tặng. Cô cháu gái liền ném ngay hai cuộn
băng vào thùng rác và nói: “Thưa chú, cháu rất yêu quý chú nhưng rất ghét nhạc
Trịnh Công Sơn. Ở Hà Nội chúng cháu không thèm nghe loại nhạc ủy mị than thân
trách phận ấy!” Anh Châu quá bẽ bàng trước phản ứng bất ngờ của cô cháu. Nghe
xong, nét mặt Sơn lộ vẻ thất vọng. Tôi nói để như an ủi: “Sơn ạ! Những ca khúc
gọi là ‘phản chiến’ của Sơn không hề làm lay chuyển hay nhụt chí những người
lính như bọn moa, vì bọn moa ý thức tại sao phải cầm súng chống lại chủ nghĩa
chuyên chính vô sản. Bọn moa có thể vừa nghêu ngao những câu ca thuộc loại ‘anh
trở về trên đôi nạng gỗ hoặc trong cỗ quan tài cài hoa’ mà vẫn thản nhiên lao
mình vào lửa đạn vì tự biết mình đang trừ gian diệt bạo, chứ không phải vì lòng
hận thù. Chính vì thế mà có nhiều anh em quân nhân đánh giặc rất chì vẫn lui tới
chơi với Sơn mà không hề bị cơ quan an ninh của chế độ làm khó dễ. Hà Nội không bao giờ chấp nhận Sơn gọi cuộc chiến này là Nội Chiến, vì
họ rất tự hào là đội tiền phong đang thi hành nghĩa vụ quốc tế để hoàn thành cuộc
cách mạng vô sản toàn thế giới. Chỉ có cán binh cộng sản mới bị Hà Nội cấm nghe
nhạc của Sơn.”
Một hôm, ngồi nhậu rượu với Sơn, không hiểu
nguyên do nào đưa đẩy câu chuyện liên quan đến Phong trào Nhân dân Cứu quốc do
bác sĩ Lê Khắc Quyến lãnh đạo, tôi bực bội nói:
“Thú thực với Sơn, moa rất khinh miệt bọn ‘trí
thức rởm’ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân. Ở Phương Tây, bọn trí
thức khuynh tả thiên cộng vì chúng chưa từng nếm mùi cộng sản. Còn ở Việt Nam, tự nhận mình là trí thức
mà không hiểu nguyên nhân vì sao hàng triệu người Miền Bắc phải lìa bỏ tài sản,
mồ mả tổ tiên để vào Miền Nam hưởng một chút không khí tự do, là ngu si, đần độn. Những nhà ái quốc, văn nghệ sĩ danh tiếng đi theo Việt Minh vì
chống Thực dân Pháp, nhưng sau chiến thắng Điện Biên phủ, gông cùm cộng sản xuất
hiện với chủ trương đào tận gốc trốc tận rễ thành phần thuộc trí phú địa hào
thì dẫu những ai từng lập chiến công với Đảng cũng hết đường cựa quậy. Chứ bọn
tranh đấu không hề biết chiến dịch Phóng tay phát động quần chúng, cải cách ruộng
đất ở Miền Bắc hết sức tàn bạo dã man hay sao? Một Trần Dần làm bài thơ “Nhất Định
Thắng” có câu ‘chỉ thấy mưa sa trên nền Cờ Đỏ’ và yêu cô gái tiểu tư sản ở lại
Miền Bắc là tan nát cả cuộc đời, đến nỗi phải cắt gân máu tay tự tử. Một Phùng
Quán chỉ làm hai bài thơ “Lời Mẹ Dặn” và “Chống Tham Ô Lãng Phí” là bị bầm dập.
Một Văn Cao phải ngưng sáng tác âm nhạc mà chỉ còn vẽ vời lăng nhăng để tránh bị
quy cho cái tội mất lập trường giai cấp. Một Nguyễn Hữu Đang có công dựng lễ
đài ở Quảng trường Ba Đình để Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập cũng không
thoát khỏi tù tội. Phải chăng bọn trí thức chủ trương tờ báo Đứng Dậy đòi hỏi
công bằng là để cho nhân dân Miền Nam này cũng phải chịu chung số phận tôi đòi
như nhân dân Miền Bắc lầm than, khốn đốn thì mới hả dạ?”
“ … Bọn trí thức phương Tây có xu hướng tả
khuynh là một kiểu làm dáng thời thượng không nguy hại cho nền an ninh của nước
họ, vì những định chế dân chủ của các nước đó đã vững vàng. Còn nước ta đang đối
diện một cuộc chiến một mất một còn chống lại kẻ xâm lăng, mà bọn trí thức bắt chước
làm dáng tả khuynh là nhắm tố cáo với thế giới rằng công cuộc tự vệ của Miền
Nam là phi chính nghĩa nghĩa và nhằm tiếp tay tuyên dương kẻ địch có chính
nghĩa giải phóng dân tộc. Hoa Kỳ giúp Việt Nam ngăn chặn làn sóng đỏ, trí thức
là “cái đầu” của Đất Nước, mà thiên về phía Cộng Sản thì nhân dân Hoa Kỳ không
còn có lý do để giúp chúng ta. Vì vậy, phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ mới có cơ
phát triển dữ dội. Sơn có ý thức điều đó hay không? Sơn có biết Miền Nam sẽ trở
thành trại lính hoặc nhà tù như Miền Bắc không, nếu cộng sản cai trị toàn bộ Đất
Nước?”
Trịnh Công Sơn nghe tôi đặt ra những
câu hỏi dồn dập, vẫn thản nhiên hút thuốc lá và chậm rãi nâng ly nhắp từng ngụm
rượu đắc tiền của bọn “đế quốc xâm lược”. Bửu Ý liếc nhìn
tôi, rồi liếc nhìn Sơn, miệng tủm tỉm cười. Lúc bấy giờ tôi không hiểu ý nghĩa
cái cười tủm tỉm của Bửu Ý. Và cho đến nay, khi viết những dòng chữ này, tôi
cũng chưa hiểu vì sao Bửu Ý tủm tỉm cười. Thật bí hiểm! Tôi đoán có lẽ Bửu Ý cười
tủm vì cho rằng tôi là một anh võ biền, chẳng có kiến thức gì lại cố gắng thuyết
phục Trịnh Công Sơn đừng mơ tưởng cộng sản?
Không, tôi biết cả hai người, Trịnh Công Sơn
và Bửu Ý, chẳng thể nào trở thành cộng sản được, như chuẩn mực Hồ Chí Minh xác
quyết: “Phải là con người xã hội mới yêu chủ nghĩa xã hội”. Mà Sơn và Ý không
phải là mẫu người xã hội! Sơn và Bửu Ý là người đọc nhiều sách vở,
nhưng không nhìn thẳng vào thực tế đang diễn ra trước mắt, lại sống trong tháp
ngà, hưởng thụ rượu nồng, dê béo.
Trịnh Công Sơn mô tả cuộc sống hàng ngày của
mình là “Đêm Không Ngủ, Ngày Bất Tỉnh” mà bất cứ ai đã từng gần Sơn đều nghe
Sơn nói câu đó. Nghĩa là uống rượu, nhậu nhẹt từ khi
đêm chưa xuống cho đến ba bốn giờ sáng; ban ngày thì ngủ vùi bất tỉnh nhân sự. Sơn là một người có biệt tài viết nhạc với những ca từ “phù thủy”
làm mê hoặc những tâm hồn mơ mộng và Sơn cũng là người cực kỳ thông minh vì biết
khai thác đề tài “chiến tranh - thân phận giống da vàng” phù hợp xu hướng thời
đại để làm cho mình nổi tiếng. Sơn biết lợi dụng sự “thông thoáng” của chế độ Miền Nam và biết bám vào
những người có quyền như Lưu Kim Cương, Hoàng Đức Nhã để trốn tránh nghĩa vụ
quân dịch; đồng thời nghiêng về nhóm “tranh đấu đểu” loại Nguyễn
Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, nghĩa là bắt cá hai tay, dù ai thắng thì mình
cũng hưởng lợi. Nói tóm lại, Sơn là mẫu người có tài, ham thụ hưởng, không hề
biết thương xót kẻ khốn cùng và không có lòng lân tuất đối với kẻ sa cơ. Xin chứng
minh:
- Nữ danh ca phản chiến trứ danh của Hoa Kỳ là
Joan Baez sau khi chứng kiến những thuyền nhân Việt Nam chết chìm ngoài biển
Đông, bà đã tỉnh ngộ, bèn tập hợp được một nhóm người nổi tiếng (celebrities)
cùng ký vào bản lên án chế độ độc tài chuyên chính cộng sản. Đó là hành động xứng
đáng của người trí thức khi biết mình sai lầm thì phản tỉnh và chống lại sự tàn
bạo dã man. Chỉ có riêng Trịnh Công Sơn không một
chút mảy may động tâm thương xót người chết đuối ngoài biển cả, nên đã viết thư
cho bà Joan Baez để bào chữa cho chế độ bất nhân bằng câu:
“Có thể nào chị và những
người bạn Mỹ cùng ký tên trong một lá thư ngỏ ấy không hiểu rằng sau một cuộc
cách mạng đất nước nào cũng phải chịu đựng những khó khăn, bề bộn và bối rối nhất
định?...”
Hàng trăm ngàn thuyền nhân chết đuối ngoài biển
đã thức tỉnh lương tâm nhân loại, riêng Trịnh Công Sơn - người nhạc sĩ được chế
độ Ngụy đùm bọc - lại đi bênh vực bạo quyền mà dám gọi đấy là cuộc cách mạng!
Chỉ có thiên tài với tấm lòng lạnh giá như băng mới mô tả đời sống nhân dân cả
nước phải nhai bo bo, dáo dác đi tìm đường vượt biên bằng mấy câu ca mô tả cảnh
thanh bình: “Em ra đi nơi này vẫn thế, lá vẫn xanh trên con đường nhỏ,
vườn xưa vẫn có tiếng Mẹ ru, có tiếng em thơ, có chút nắng trong tiếng gà trưa
…” Trong khi những bằng hữu từng cưu mang mình, từng rót không biết
bao nhiêu hồ rượu thượng hảo hạng cho mình như Phạm Thọ, như Lê Kim Lợi, như Hồ
Đăng Lễ đang rũ tù trong trại khổ sai…thì Trịnh Công Sơn hân hoan “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” để tới lui khề khà với những
người bạn “cách mạng” có vây có cánh! Nhờ đâu Sơn đã có nhiều niềm vui đến thế?
Từ ông Võ văn Kiệt chăng?
- Trịnh công Sơn viết báo
cộng sản nhục mạ những anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, những người từng che
chở cho Sơn, khiến cho ông anh tôi - Đặng văn Châu - không là quân nhân cũng
phải nổi sùng. Năm 1994 về VN tình cờ gặp Trịnh Xuân Tịnh, em Sơn, ở sân bay
Tân Sơn Nhất, anh tôi đã nhắn: “Anh Tịnh
về nói với Sơn rằng Sơn là một con Số Không, là kẻ vong ân bội nghĩa.”
- Anh XYZ (nhân vật yêu cầu tôi dấu tên), một
người anh em ăn ở hết lòng với Sơn và bạn bè, đi tù khổ sai về bị tai nạn gãy
chân, phải vào nằm bệnh viện. Sơn làm ngơ như không hề hay biết. Mẹ Sơn hỏi con
trai: “Tại sao con không vào nhà thương thăm anh XYZ một chút cho có tình?” Sơn
đáp: “Đi ra Givral uống rượu còn thú hơn là đi thăm anh XYZ”. Chính bà mẹ Sơn là người thuật lại cho anh XYZ nghe câu nói phũ
phàng của Sơn. Anh XYZ là người đàn anh của nhóm bạn văn nghệ ở Huế, rất được bằng
hữu kính trọng và yêu thương, hiện sinh sống tại Hoa Kỳ.
Theo quan điểm của tôi, một người nghệ sĩ được
đánh giá là chân chính thì không bám vào kẻ quyền thế để mưu lợi riêng, mà thủy
chung với bạn bè, biết xót xa với nỗi bất hạnh của kẻ yếu để không bênh vực cho
kẻ gieo TỘI ÁC. Lời phản bác của Sơn đối với bức thư của ca sĩ Joan Baez lên án
chế độ vô nhân đạo là sự đồng loã, a tòng với TỘI ÁC, mà một con người bình thường
có nhất điểm lương tâm không bao giờ làm. Phải chăng nhờ bức thư phản bác ca sĩ
Joan Baez của Sơn mà Võ Văn Kiệt cứu Sơn thoát khỏi bàn tay Trần Hoàn và phe
nhóm Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế?
Nhờ sống với “Ngụy Quyền” Miền Nam, Trịnh Công
Sơn nổi tiếng cả thế giới và được hàng triệu thính giả ái mộ. Nếu Sơn sống với
“Chuyên Chính Vô Sản” Miền Bắc thì Sơn - một thiên tài - có rất nhiều khả năng
trở thành Tố Hữu - nhà thơ thổi ống đu đủ - thăng quan tiến chức nhờ xu phụ quyền
lực. Nhưng Sơn sẽ khổ sở vô cùng, vì Miền Bắc không có rượu thượng hảo hạng để
uống mỗi ngày!
Tôi không chắc Trịnh Công Sơn có tham vọng
chính trị như Trịnh Cung viết. Nhưng năm 1974, có nhóm tranh đấu đòi hòa bình
(bịp) mời Sơn tham gia phong trào ca hát để vận động chấm dứt chiến tranh thì
anh em bạn hữu khuyên Sơn đừng nhận lời, Sơn đáp thẳng thừng: “Mình
phải tham gia để nếu họ thắng lợi thì mình có tiếng nói.” Lời bày tỏ của Sơn biểu hiện bản chất của con người biết tính
toán để mưu cầu lợi ích bản thân. Qua bức thư Sơn viết cho Ngô Kha vào năm 1974
có đoạn như sau:
“Hôm nay những thành thị
miền Nam đang vươn vai đứng dậy. Trời đất được cơ hội thoát ra không khí ô nhiễm
để thở bằng sinh lực mới cùng tập thể nhân dân yêu nước, yêu hòa bình và tự do.
Phải chăng hồi chuông báo tử đã được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy
tàn tạ nhanh chóng.”
Đó là luận điệu dối trá, bịp bợm của người nghệ
sĩ có tên tuổi nhưng thiếu nhân cách, bởi vì trong thực tế nơi nào bị cộng sản
tấn công thì nhân dân nơi đó bồng bế nhau chạy về phía Việt Nam Cộng Hòa, chứ
không chạy qua vùng “giải phóng”. Người nào đọc thư Sơn viết cho Ngô Kha mà bảo
rằng Sơn không hề có chủ tâm đứng về phía cộng sản là người đó mắc chứng
“phương trệ tinh thần” (down syndrome).
Ba mươi Tháng Tư năm 1975, nằm ở đảo Guam tôi
nghe đài BBC loan tin Trịnh Công Sơn ôm đàn lên đài phát thanh Sàigòn ca bài “Nối
Vòng Tay Lớn” thì tôi dự đoán cuộc đời của Sơn sắp tiêu ma. Bởi vì cái bản chất
đố kỵ của người cộng sản không bao giờ chấp nhận người ngoài đảng được phép nổi
đình nổi đám được quần chúng hoan hô! Quả nhiên chẳng bao lâu sau Sơn bị cộng
sản đe dọa tính mạng, nên Sơn phải chạy về Huế để mong được bạn bè che chở.
Không ngờ những người bạn của Sơn như Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân
đã quay lưng làm ngơ để cho Sơn bị Trần Hoàn đày đi lao động thực tế! Tình
nghĩa bạn bè của cộng sản là như thế đấy!
Trịnh Công Sơn, một người nghệ sĩ tài hoa, được
bạn hữu Miền Nam quý mến, bảo bọc lại bí mật rắp tâm thông đồng với bọn sát nhân
nhằm giật sập chế độ Việt Nam Cộng Hòa, để rồi bị khốn đốn vì bọn sát nhân. Con người một dạ hai lòng, dù có tài đến
mấy đi nữa, thì vẫn đáng khinh.
Bài viết
của Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn đã khiến cho một số người lên tiếng bênh vực
“thiên tài”. Chúng ta không ngạc nhiên chút nào, bởi vì ngay như tội ác của
Hitler, Staline, Mạo Trạch Đông vẫn có kẻ bênh vực và tôn thờ. Nhưng những ý kiến phản bác bài viết của Trịnh Cung đều có luận
điệu mạt sát và bôi nhọ Trịnh Cung, mà không hề thấy có lời lẽ nào lên án hành vi “một dạ hai lòng ăn cơm quốc
gia thờ ma cộng sản” của Trịnh Công Sơn khiến cho chúng ta thấy
được tác giả của những ý kiến phản bác đều thuộc phe…xã hội chủ nghĩa, chứ
không phải sự lên tiếng là vì SỰ THẬT. Sự Thật đó là Trịnh Công Sơn có ngả về
phía cộng sản.
Trong số những người lên tiếng bênh vực Trịnh
Công Sơn trên Thanh Niên Online có hai Việt Cộng khá tên tuổi. Đó là hai “tội phạm chiến tranh”
Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân từng chôn sống hàng ngàn người dân Huế
vô tội vào năm Mậu Thân 1968. Hai tên tội phạm đó đã ra cái điều
trí thức, lấy danh nghĩa chống Mỹ cứu nước để đẩy cả nước xuống hầm tai họa. Từ
tháng Tư năm 1975 cho đến nay chưa ai nghe thấy hai kẻ đó có một lời nói hay
hành động sám hối.
Ngày
xưa sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hai ông Việt Cộng này hung hăng chống độc
tài quân phiệt tay sai đế quốc ngoại bang. Ngày nay sống với Xã hội Chủ Nghĩa
chủ trương đàn áp nhân dân biểu tình tỏ bày lòng yêu nước chống lại Trung Cộng
cướp đất, cướp biển; dân oan khiếu kiện nằm la liệt dải gió dầm sương; các nhà
tôn giáo bị đàn áp, các nhà dân chủ bị bịt miệng, bị cầm tù thì hai ông Việt Cộng
này ngậm miệng giống như câm, như điếc. Họa sĩ Trịnh Cung
tung ra một bài viết tiết lộ một chút xíu bí mật về Trịnh Công Sơn thì hai ông
Việt Cộng Tường, Xuân hăm hở nhào ra bảo vệ uy tín thiên tài có quá trình đi
đêm với cộng sản! Tình trạng đạo lý suy đồi, quan chức ăn cắp từ trên xuống dưới,
nhân quyền bị xếp hạng chót trên thế giới là những thành quả to lớn của Cộng Sản
Việt Nam mà hai ông Tường, Xuân đã dày công đóng góp. Cho nên, ngày trước tôi nói với Trịnh Công Sơn rằng tôi rất
khinh bỉ bọn trí thức tranh đấu là một lũ bịp bợm, lưu manh quả không sai.
Khi chuyên chở tù binh cộng sản từ chiến trường, tôi biếu họ điếu thuốc
lá, cái kẹo vì tôi thương và tôi kính trọng người lính khác chiến tuyến bị sa
cơ. Nhưng tôi khinh bỉ những kẻ được
ăn sung mặc sướng ở phần đất tự do lại ngấm ngầm tư thông với giặc.
Thật đáng tiếc cho Trịnh Công Sơn, một
thiên tài nhưng đốn mạt. Sơn không xứng đáng là một người nghệ sĩ được đa số
khán thính giả ngưỡng mộ, vì Sơn cũng chẳng khác với hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ
Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân bao nhiêu.
Mới đây, đọc “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc
sĩ Tô Hải, tôi không hề coi khinh tác giả, trái lại rất kính trọng bởi vì dám
nhận mình hèn. Tác giả phải sống dưới chế độ độc tài toàn trị có kỹ thuật hủy
hoại người thẳng thắn, người cương trực một cách dã man khủng khiếp, khiến cho
ai nấy đều trở nên hèn. Đọc hồi ký của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh kể
lại những “cái hèn” của những văn nghệ sĩ Miền Bắc, tôi vô cùng xót xa cho họ
và càng thù ghét chính sách cai trị phi nhân của cộng sản. Lặp lại, nhạc sĩ Tô
Hải dám nói lên cái hèn của mình, tôi xin ca ngợi ông là người có khí phách.
Ở Miền Nam có chủ trương đề cao nhân tài, dù sản
phẩm nhân tài làm ra nhằm làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân sĩ, vẫn được
tự do phổ biến, mà nhân tài vẫn tư thông với địch mới là đáng khinh. Hai ông Việt
Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân dùng đạo lý tình bằng hữu để miệt
thị họa sĩ Trịnh Cung lừa thầy phản bạn là một hành vi đạo đức giả. Hai ông Việt
Cộng từng phản lại khát vọng tự do của nhân dân Miền Nam để dẫn “Bộ Đội Cụ Hồ”
về chôn sống người Huế vô tội, thì hai ông không có tư cách gì để nói đến tình
nghĩa bạn bè, tình nghĩa con người.
Hơn ba mươi năm qua, Đất Nước đắm chìm trong nghèo đói, áp bức,
bất công, hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân không tỏ bày
một chút ân hận, lại còn lên mặt đạo đức giả mới là kẻ hèn, đáng khinh bỉ.
Đọc bài “Tình bạn, hồi sinh cơn hôn mê” của họa
sĩ Đinh Cường viết từ Virginia từ ngày 16 tháng 4 năm 2001, tôi không khỏi đem
lòng hoài nghi cung cách ứng xử với nhau giữa các ông nghệ sĩ tên tuổi. Nhờ sự
tiết lộ của Trịnh Cung, tôi mới hiểu vì sao Đinh Cường viết những lời ưu ái với
ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
đã không ngần ngại ca ngợi nhà thơ Tố Hữu bằng câu văn như sau: “nó đột khởi
thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu”. Nhắc lại: Tố Hữu là
nhà thơ dùng quyền lực của Đảng làm khốn đốn, điêu đứng nhiều anh em nghệ sĩ Miền
Bắc.
Còn ông Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân bây giờ là
nhà nghiên cứu! Chắc chắn nhà nghiên cứu này còn bám lấy chủ nghĩa
Marxist–Léninist thì sẽ ngụy tạo ra những bài nghiên cứu theo đường lối “duy vật
sử quan” cho phù hợp lập trường của Đảng để được Đảng cho đi Mỹ, đi Tây khua
môi, múa mép.
Các cụ nhà ta thường nói:
“Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện”. Hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và
Nguyễn Đắc Xuân càng nỗ lực bênh vực Trịnh Công Sơn và miệt thị Trịnh Cung bao
nhiêu, thì tội trạng Trịnh Công Sơn tư thông với kẻ thù càng rõ nét bấy nhiêu.
“Thời Của Những Kẻ Giết Người” biết đến bao giờ
mới được lương tri soi sáng để can đảm nói một lời sám hối với những vành khăn
tang trắng xóa đất Thần kinh thì chúng ta mới hy vọng Đất Nước có ngày hồi
sinh.
Bằng
Phong Đặng Văn Âu
Ngày 12 tháng Tư năm 2009.