Những năm tháng của mấy chục năm về trước, mỗi độ Tết âm lịch
về, lòng tôi lúc nào cũng buồn buồn. Một nỗi buồn không sao tránh được. Nỗi buồn
đó như thói quen, như bệnh lâu ngày, như một công thức đời sống bám chặt lấy
mình. Là người Việt tha hương lâu năm khi Tết Nguyên Đán về chắc chắn không nhiều
thì ít lòng ai cũng nao nao buồn, khi sửa soạn lòng mình để đón một năm mới ở xứ
người. Cười đấy, nói đấy, nhưng bỗng dưng có lúc ngồi lặng thinh, im ắng, ứa nước
mắt một riêng mình, nhớ về quê nhà, nhớ ông bà, cha mẹ dù còn sống hay đã qua đời.
Có một năm, chỉ còn một vài ngày nữa là Tết. Tôi lái xe từ chợ về nhà, trời
chưa vào tối, nhưng là mùa đông nên âm u, lái xe giữa đường bỗng nhớ cha, nhớ mẹ,
nhớ quê nhà thăm thẳm làm lòng quặn thắt, phải tạt xe vào lề đường, vừa bật lên
khóc nức nở, vừa gọi phôn cho cô em (đang làm việc ở sở), em tôi cũng bối rối
nhưng chẳng biết nói gì hơn là vài câu an ủi: mình phải buồn là chuyện tự nhiên
thôi.
Những năm gần đây tôi lại mang một tâm trạng khác. Tôi đối
diện với tuổi đời, biết là mình đã sống, đã kinh qua buồn vui, biết “Niềm vui
ngọt ngào nhất của đất trời đều là kết quả của những ưu phiền” nên lòng tôi chỉ
mang mang một nỗi buồn rất nhẹ nhàng về năm tháng, lại thấy tâm an khi nghĩ mẹ
cha đã ở một chốn tốt đẹp và đang chúc phúc cho con cháu. Còn mình, thì theo lẽ
đương nhiên của đất trời sẽ được gặp lại mẹ cha một ngày nào đó.
Tưởng lòng mình đã lắng xuống với buồn vui, nhưng mấy tháng cuối năm nay, đọc
cái bản tin về một người mẹ trẻ, ôm hai đứa con nhỏ nhẩy lầu ở Đại Hàn, chết cả
ba mẹ con, tôi không sao giữ cho tâm an được. Khổ đến thế nào mà cô phải đi đến
quyết tâm cả ba mẹ con cùng chết.
CHIM KÊU VƯỢN HÚ
Má ơi! Đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Câu ca dao của miền Nam thời xa xưa đó bỗng quay về trong trí tôi mấy ngày cuối
năm. Thuở đó, gả con xa có nghĩa là gả con sang làng khác, sang tỉnh khác. Là
đưa dâu, đón dâu hết một ngày đò dọc hay đi bằng xe hàng một chặng đường dài từ
sáng đến chiều. Cô gái đi làm dâu xa, khi sanh đứa con đầu lòng mới được về cho
mẹ chăm nom “Con so nhà mạ/Con rạ nhà chồng”. Sanh con cứng cáp rồi lại quay về
bên chồng.
Có khi cả năm tới tết mới được ôm con về thăm cha mẹ, hay
cha mẹ ốm đau lắm hoặc qua đời mới được về trả hiếu. Vì cô đã thuộc về dâu con
nhà người. Cha mẹ thương nhớ con nhưng gái lớn thì phải theo chồng, nên tuy
khóc nhưng cũng mừng vì con có gia đình.
Nếu con được vào gia đình khá giả, tử tế cha mẹ hãnh diện,
an tâm; nếu chẳng may con lấy phải chồng nghèo cũng khuyên con chịu thương chịu
khó gánh vác giang san bên chồng, ở cho phải đạo dâu con. Số cô có vất vả lắm
cũng là thức khuya, dậy sớm, làm đủ mọi việc trong gia đình. Số cô có khổ lắm
thì gặp anh chồng vô tích sự, còn cờ bạc, rượu chè, gặp mẹ chồng cay nghiệt bắt
bẻ. Như thế đã là quá sức chịu đựng cho một người phụ nữ rồi và làng trên, xóm
dưới, ai cũng chê trách cái gia đình bên chồng cay nghiệt đó.
Chữ “Má ơi” cho ta biết câu hát đó phát xuất ở miền Nam nước
Việt. Gái quê của miền tây Nam Bộ đẹp nổi tiếng. Gái Mỹ Tho, Cần Thơ, Bến Tre,
gái Cao Lãnh, Nha Mân cô nào cũng đẹp, cũng da trắng, tóc dài. Hình ảnh những
cô gái dậy thì trong chiếc áo bà ba ngồi bên sạp trái cây là hình ảnh những du
khách ngoại quốc cho in vào những tấm thiệp lưu niệm gửi đi khắp nơi trên thế
giới.
Cha mẹ chỉ gả cô sang làng khác, sang tỉnh khác thôi mà cô đã tức tưởi kêu lên
như vậy rồi. Bây giờ cô lìa cha mẹ, xa anh em, xa làng, xa nước, sang tận Đại
Hàn, Đài Loan, Trung Quốc lấy chồng.
Cô đi lấy chồng, một người chồng lớn hơn cô từ 10 đến 20 tuổi, người chồng tàn
tật hay người chồng mang bệnh tâm thần, có cô chồng gần bằng tuổi cha mình. Cô
không nói cùng chung ngôn ngữ, cô không biết gia cảnh nhà chồng, cô bước lên
máy bay, bay tít lên vòm trời rồi hạ xuống một vùng đất hoàn toàn xa lạ. Cô kêu
lên “Má ơi!”
Nhưng má cô không thể nào nghe được tiếng kêu đó nữa. Cô mất
liên lạc với gia đình, với quê nhà, ngay khi bước chân vào nhà chồng. Cô bị
hành hạ, đánh đập, cô không biết chỗ trốn, không biết chỗ chạy. Nhà chồng trấn
lột hết giấy tờ tùy thân của cô, cô không có một tờ giấy nào chứng minh cô là một
người vợ đến từ phương xa, cô không có ngôn ngữ để giãi bầy.
Ở Đại Hàn, cô bị cả nhà chồng đánh đập. Cô bị đánh đến gẫy xương, cô chết, xác
vứt xuống hầm như vất một con chó chết; cô bị đánh đến dập gan, nát phổi, cô chết
ngay bên cạnh đứa con sơ sinh; hay cô tự tử vì không còn lối nào thoát ra được
sự hành hạ ngoài cái chết. Cô ôm cả hai đứa con thơ dại nhẩy từ lầu cao xuống để
ba mẹ con cùng chết. Đó là cách duy nhất có thể bảo vệ mình và con mình.
Ở Đài Loan, sau khi làm vợ vài tháng, cô bị đánh đập gán cho bao nhiêu tội cô
không hề có, trước khi họ mang đi bán, như bán một con heo vào những động mãi
dâm. Cô mất hết đường về.
Ở Trung Quốc, hình ảnh những cô dâu Việt Nam mặc áo dài truyền
thống được quảng cáo trên tường, trên cột đèn ngoài phố, với cái giá rẻ mạt kèm
theo những hàng chữ: Không còn trinh, được đổi cô khác. Cô về đến nhà chồng mới
hay mình được đem về làm con vật tế thần cho từ bố chồng, anh chồng, đến em
trai của chồng. Người ta coi như mua về được một con nô lệ vừa lao động trong
việc đồng áng vừa phục vụ tình dục cho những người đàn ông trong nhà. Cô cũng
không bao giờ trốn được họa chăng là phép lạ.
Nhưng phép lạ, đôi khi cũng xẩy ra nên thế giới bên ngoài mới biết được những
nghịch cảnh mà những cô gái Việt Nam gánh chịu. Có cô đã trốn thoát.
Tại sao biết những chuyện bất hạnh như thế có thể xẩy ra cho mình mà các cô gái
quê, vẫn theo nhau vào Sài Gòn tìm đến những dịch vụ hôn nhân với người nước
ngoài.
Các bà mẹ vẫn hân hoan khi có con gái lấy chồng Hàn, chồng Đài Loan. Vì cũng
trong mười cô chết thì có một cô may mắn sống, một cô không bị nhà chồng hành hạ
và mang được tiền về cho cha mẹ ở cái làng nghèo nàn bên Việt Nam. Cái làng mà
ruộng đồng, ao cá, không còn vì đất đai bị chiếm hết để xây cao ốc hay công xưởng,
nhà máy. Có khi bị chiếm để xây những nghĩa địa cho các đại gia hay các ông lớn
(chưa chết,) những ngôi nhà mồ, đắp tô với rồng bay phượng múa, phỏng theo mô
hình cung điện của các vua chúa thời xưa bên Trung Hoa.
Có bà mẹ đã nói: “Ôi! Trời kêu ai nấy dạ. Đâu có phải ai lấy chồng Hàn, chồng
Đài Loan cũng chết hay cũng bị mang bán cả đâu. May mắn nó mang tiền về xây nhà
mới cho mình chứ lấy chồng Việt để ôm nhau chết đói à?” Có bà ngoại, bà nội
nhìn con cháu bé lên bốn lên năm cất tiếng khen: “Con bé này xinh quá, nuôi cho
mau lớn rồi gả chồng Hàn.”
Tôi đã nhiều lần đọc được những cái tin như thế, nghe lòng bải
hoải cả mấy tuần. Cứ tự hỏi: Sao ở trong nước, không có phu nhân hay một tiểu
thư nào là vợ, con, của một ông bộ trưởng, ông tổng giám đốc, ông thủ tướng hay
một đại gia nào đó với gia tài cả trăm triệu, cả bạc tỷ Mỹ kim, đứng lên làm một
việc gì tốt lành cho những cô gái này, như: xây trường dạy nghề, hướng dẫn công
việc, cho mượn vốn buôn bán, để cứu giúp những cô gái quê, ít học, có một công
việc nuôi thân. Tôi nghĩ nếu các cô được hướng dẫn thì cái tỷ lệ mang thân làm
dâu Hàn, dâu Đài Loan, dâu Trung Quốc sẽ bớt đi nhiều. Hay ít ra giúp họ tìm
cho rõ ngọn nguồn trước khi ký vào những tờ giấy hôn thú mang rủi nhiều hơn may
đó.
Cái động lực nào đã đưa các cô đến chỗ không sợ hãi trước những chuyện người chồng
Hàn có thể đánh vợ cho đến chết, hay hành hạ cho đến lúc người phụ nữ phải tự tử
để an thân. Người chồng Đài Loan có thể mang vợ đi bán cho ổ mãi dâm, hoặc chuyện
phải làm nô lệ tình dục cho cả một gia đình bên Trung Quốc. Kinh hoàng quá!
Cái xã hội cô đang sống có đưa bàn tay nào ra, níu cô lại, giúp đỡ cô hay cũng chính
cái xã hội đó thản nhiên nhìn cô bước vào một thế giới cô không có khả năng
hình dung ra trước được. Đau thương quá!
Cô đi lấy chồng như thế đau khổ cho cô, tủi nhục cho cha mẹ
đã đành mà còn xấu hổ cho cả một quốc gia nữa. Ông anh tôi ở tiểu bang
California, một hôm kể cho tôi nghe, ở cái club anh chơi tennis, anh gặp một
người đàn ông Đại Hàn mới nhập hội chơi. Sau vài lần chơi chung, cà phê, ăn
sáng hai người có vẻ hợp lắm.
Một hôm anh Đại Hàn hỏi anh tôi người nước nào, anh tôi nói
là người Việt Nam. Hôm sau thấy anh ta lạnh lùng ra mặt và có ý tránh không nói
chuyện, mới đầu anh tôi không để ý, sau thấy mình hỏi anh ta lờ như không nghe.
Anh tôi thấy vậy cũng phớt tỉnh.
Anh không thích tôi thì tôi cũng chẳng cần thích anh. Bẵng độ
hai ba tuần không nói với nhau, anh Đại Hàn bỗng một hôm quay lại thú thật: Mới
đầu tôi tưởng ông là người Hoa hay người Phi, tôi không biết ông là Việt Nam.
Tôi không thích dân Việt Nam, một cái dân gì mà cứ mang con gái họ bán hết cho
nước này nước khác làm vợ.
Người Hàn tử tế coi thường người Việt ở chỗ đó. Anh tôi nổi
xùng. Thế cái thằng đi mua vợ rẻ có đáng khinh không? Hai bên lý sự một hồi, bất
phân thắng bại. Bây giờ họ nói chuyện với nhau trong lúc chơi banh, nhưng vẫn
không phải bạn. Một bên mua vợ giá rẻ và một bên bán vợ với bất cứ giá nào. Bên
nào đáng khinh hơn.
Anh tôi kết luận: Nhục cho cả nước, anh em mình sang tận đây rồi mà vẫn nhục
lây.
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng mang sang.
Tôi được người lớn tuổi hơn giảng cho nghe: canh cần là do chữ tần tảo (một loại
rau tần / tảo là rau) Ngày trước người nghèo có thể kiếm rau tần trong vườn nấu
những bát canh đạm bạc. Người con gái nghèo đi kiếm rau tần cả ngày được gọi là
tần tảo. Nên mới có chữ “tần tảo” chỉ cho người phụ nữ chịu khó làm việc trong
hoàn cảnh túng thiếu.
Bây giờ ở Việt Nam, các cô gái quê dù có muốn tần tảo cũng
hiếm có cơ hội, cô không lấy chồng gần, vì người chồng gần cũng chẳng có việc
làm, cả hai vợ chồng cô giỏi lắm cũng chỉ kiếm được một bát canh cho cả gia
đình, làm sao cô có cơ hội để đem sang chia cho cha cho mẹ được. Cô đành phải lấy
chồng xa, cô coi thân cô như một cuộc bài may rủi. Biết đâu cô chẳng kiếm được
người tử tế, biết đâu cô chẳng mang tiền về cho mẹ uống thuốc, cho mẹ có một
bát canh thịt thơm ngon, cho cha sửa nhà, mua sắm truyền hình, tủ lạnh, biết
đâu…, biết đâu…, biết đâu…Cô lại chết thảm thương như thế. Cô không kêu được:
“Má ơi!” nữa rồi.
“Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu.”
Tâm nào còn an được để đón xuân về!
Trần Mộng Tú
Feb. 2013
Nguồn:
BM Blog.