VĂN - THƠ


 


----ooOoo---- 


CON CÀO CÀO XANH
 
Dương Thịnh

Tác giả là cư dân Westminster, thành phố  Little Saigon, một cựu tù nhân chính trị đến Mỹ theo diện HO-8 đi tìm gặp vợ con sau cuộc đổi đời.
 
 
Đứng trong hàng rào kẽm gai của khu thăm nuôi. Bé Mai cố nhướng mắt để tìm người cha thân yêu của mình trong số những đoàn người gầy guộc, xanh xao, vàng vọt đang lếch thếch cất bước trên đường về trại tù. Với ánh nắng trưa hè gay gắt,mọi nguời đi thăm nuôi đều đứng trong mái hiên ngẩng cổ nhìn ra. Riêng bé Mai bất chấp những tia sáng nóng đang rọi trên đôi má ửng đỏ, những giọt mồ hồ đang rịn trên trán. Cô bé cố giơ cao những con cào cào xanh hướng về phía đoàn người đang lần lượt đi qua, hầu mong cha của mình sẽ mau chóng nhận ra. Ông Sinh đã nhận ra con gái , ông giơ cao lon gô vẫy vẫy. Bé Mai sung sướng reo lên :
“Má ơi. Con thấy ba rồi! Con thấy ba rồi !
  
Đoàn tù vẫn bình thản bước lên đồi. Ông Sinh vừa đi vừa ngoảnh cổ lại đằng sau nhìn con..Khi không còn thấy hình bóng cha nữa, bé Mai mới chịu chạy lại bên mẹ thút thít khóc
Thiếu phụ rút khăn tay lau mồ hôi trên trán con, vuốt mái tóc bé an ủi :
“Nín đi con, tí nữa mẹ con mình gặp cha rồi.”
 
Thời gian thăm nuôi thật ngắn ngủi, chỉ mười năm phút. Ông Sinh chỉ kịp ôm con vào lòng, hôn lên má con. Hỏi han vợ năm ba câu, chẳng nói được gì nhiều, đã gần hết giờ. 
Mọi người trong phòng thăm nuôi chỉ biết nhìn nhau khóc và khóc. Đến giờ. Tên cán-bộ oắt con quơ quơ khẩu súng AK. về phía mọi người:
“ Đã hết giờ, yêu cầu mọi người đứng lên ra về.”
 
Ông Sinh vôi vàng nắm chặt hai bàn tay vợ và ôm hôn con lần cuối, sách bị gói lương khô cùng mấy con cào cào theo chân mọi người ra cửa.
 
Ngồi trên chuyến xe lô trở về thành phố, hầu hết là những bà vợ đi thăm nuôi chồng, họ đều mệt mỏi trong cuộc hành trình dài. Phần vì đường xa, phần vì phải thức khuya dậy sớm để nấu thức ăn, giờ đây tất cả đều cố nhắm mắt thiu thiu ngủ dưỡng sức. Riêng bé Mai không tài nào ngủ được, dù rất muốn ngủ và mệt mỏi. Hình dáng của người cha luôn luôn lởn vởn trong trí óc bé, thân hình gầy gò, đen đủi cùa ông khác xa với hình dáng trắng trẻo, hồng hào, mập mạp trước kia rất nhiều. Bé là người được cha thương yêu nhất. Đêm nào ông cũng ru bé ngủ, kể truyện cho bé nghe, trước khi rời khỏi phòng ông không quên hôn lên nút ruồi son trên cổ bé, mà ông thường gọi đùa là : Nốt ruồi mang đến nhiều sự may mắn.” 


Ông có đôi bàn tay rất khéo léo và nghệ thuật. Chính ông đã dậy cho bé xếp hình những con thú, đồ vật bằng giấy nhất là thắt hình những con cào cào bằng lá dừa non thật là tuyệt, trông chúng đẹp, hùng dũng, oai phong biết bao! Bé rất thích và thường thắt để tặng bạn bè, vì thế chúng thường chọc và gọi bé lá con cào cào xanh. Biệt hiệu này bé rất thích và thường hay kể lại với cha. Ông nói con cào cào xanh với đôi chân cứng cáp, nhẩy xa, biểu hiện cho sự tương lai vững chắc. Cha muốn con gái của cha sau này cũng giống như những con cào cào này.

Riêng ông Sinh, ông không thể không cầm được nước mắt khi nhìn giỏ quà của vợ con. Sau gần hai năm tù cải tạo, đây là lần đầu tiên ông được thăm nuôi. Giỏ qùa dù ít nhưng nó đã gói ghém biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, tình thương của gia đình, dù ít nhưng ông rất ấm lòng. Nhất là mấy con cào cào xanh, nhìn chúng ông cảm thấy vui vui và xao xuyến trong lòng. Cô bé không biết đã bỏ biết bao nhiêu công sức, tình thương yêu gói trọn vào đó để dành cho cha. Nghĩ tới đó tim ông như thắt lại. 

 

Đây là lần đầu và cũng là lần cuối ông gặp mặt vợ con. Kể từ ngày thăm nuôi cho tới mấy năm sau này, ông không hề nhận được bất cứ tin tức gì về gia đình. Lòng ông như rối bời, tâm tính như mất trí, thân xác kiệt quệ. Mấy lần ông đã ngã qụy, tưởng không thể sống nổi, may nhờ bạn bè an ủi, giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần , ông đã qua khỏi.
 
Cuộc sống tù đầy cứ như thế: Chịu đựng, đau khổ, đói khát. Cho tới cuối năm 1981 ông được thả về. 
 
Ra khỏi tù , ông không còn nơi nương tựa. Theo chòm xóm cho biết : Vợ con ông đã vượt biên năm 1976. Gia đình bên vợ thì đã bán nhà dọn đi nơi khác, không biết biệt tích nơi đâu. Còn bên ông thì không có ai cả, vì ông vô Nam chỉ có một mình khi ông mới mười hai tuổi. Thế là hết ! không biết đâu mà mò. 
 
Điều làm ông lo âu nhất, là vợ con ông có thật sự đi vượt biên không, hay là tin đồn nhảm?! Nếu đúng như vậy, liệu có thoát không? Hay là đã bị…..ông không dám nghĩ tiếp. Nếu thoát, tại sao không gửi thư về để cho ông biết tin Những câu hỏi tại sao ?....tại sao?...làm cho ông điên đầu. Hiện giờ ông mù tịt, và cũng không hiểu vì sao.?! 
 
Ra khỏi nhà tù nhỏ, ông lại vô nhà tù lớn. Cũng lao động thân xác để kiếm miếng ăn, cũng phải học tập, trình diện hàng tháng. Người ông càng ngày càng tiều tụy, nhưng ông phải ráng sống để có ngày gặp lại mặt vợ con.
 
May mắn nhờ một người bạn tù cùng chung một tổ trong trại tù, đưa ông về nhà cho tá túc qua ngày, cùng chỉ ông cách thức vá giầy, dép cũ. Cuộc sống của ông cũng tạm đủ.
 
Dạo này trời Sài-Gòn hay đổ những cơn mưa bất tử, làm ông Sinh dọn hàng ra, vô muốn bở hơi tai. Hai năm sau này công việc làm ăn của ông đâm khá ra. Giầy dép cũ mới, chôm chỉa gì ông cũng mua tuốt luốt, đem sửa chút ít, dánh bóng lại bán được gía cao.
Một người khách đi đến gian hàng ông. Ngắm nghía lựa một đôi, sỏ vừa chân,, cầm lên hỏi :
“Bác , Đôi này bao nhiêu?” 
 
Đang cúi lau giầy, ông vội vàng ngửng đầu lên định trả lời. Nhưng thấy người khách ông bỡ ngỡ, cảm thấy rất quen nên chưa kịp đáp. Người thanh niên thấy mặt ông cũng giật mình lùi lại, trơn mắt như gặp phải ma. Cậu ta định thần nhìn kỹ. Vội hỏi :
“Xin lỗi, xin lỗi. Bác có phải…..phải tên Sinh không?”.
Cũng vừa kịp lúc ông Sinh nhận ra người khách lạ, chẳng ai khác hơn chính là cậu em vợ của mình. Như bắt được vàng. Ông Sinh rối rít dọn hàng không bán nữa.
Hai anh em kiếm một quán cà phê ngồi tâm sự. 
 
Thì ra vợ con ông đi vượt biên thực sự, hiện định cư ở Mỹ. Vợ ông đã có chồng khác và đã có hai con, một trai, một gái. Cha mẹ vợ đã bán nhà ở thành phố, dọn về quê ở. Mấy năm nay ông bà vẫn đều đặn nhân được tiền bạc do con gái chu cấp hàng tháng, và hiện cậu em trai vẫn còn ở với cha mẹ. Không hiểu vì lý do gì, cố ý hay có uẩn khúc gì khác, ông bà lại báo với con gái là ông đã chết trong trại tù. 
 
Ngay ngày hôm sau. Ông Sinh cùng cậu em vợ vội đáp xe đò về thăm gia đình vợ. Chuyến thăm này đã khiến ông Sinh nhận nhiều sự đắng cay tủi nhục. Sự ơ hờ, tiếp đón tẻ nhạt đã làm ông thất vọng. Ông không có địa chỉ cũng như không có tin tức gì về vợ con. Ông chỉ biết đạì khái là : Vợ ông không muốn cho ông biết nơi ở của nàng. Chuyện ông bị chết là do công an tới nhà báo tin. 
 
Nhưng nhờ vào lòng tốt của cậu em vợ, cuối cùng ông cũng có được địa chỉ của vợ con trong tay. Nhưng làm được gì với địa chỉ này ? Đối với vợ, ông có lỗi với nàng chứ không phải nàng có lỗi với ông. Ở vậy chờ chồng nuôi con là việc tốt, nếu không thì đành phải chấp nhận, không thể oán trách. Nhưng với con, ông phải có bổn phận và trách nhiệm. Ông nhớ cô bé vô cùng không kể xiết.
 
Ông đã viết thơ nhiều lần, nhưng chẳng bao giờ được hồi âm. Lại mù tin, mù tịt. Đầu óc ông rối rắm tơ vò. Con ông ra sao rồi ?! 
 
Sau đó chương trình HO được cứu xét, đưa các sĩ quan tù nhân cải-tạo qua Mỹ. Ông sung sướng bán tín, bán nghi. Nhưng sự thật đã đến. Giờ đây ông đã ngồi trên máy bay đến Mỹ theo diện HO.8. Việc đầu tiên của ông dự định là sau khi lo thủ tục giấy tờ xong, ông sẽ đi tìm vợ con. 
 
----ooOoo---- 
 
Đứng trước cánh cổng sắt của căn nhà sang trọng, trong một thành phố thuộc tiểu bang Illinois. Ông Sinh lưỡng lự không dám bấm chuông, lòng ông hồi hộp, tim đập loạn xạ.. Ông đang tưởng tượng hình dáng vợ mình bây giờ thế nào? Con mình đã lớn khôn ra sao? Cô bé giờ đã hai mươi mốt tuổi rồi còn gì, không biết ông có còn nhận ra không?! 
 
Rồi ông tự hỏi có nên vào hay không ? Gia đình người ta đang hạnh phúc, mình vào có đúng lúc không?! Đang lúc suy nghĩ miên man. Chợt ông thấy một thiếu phụ từ trong nhà đi ra, tay cầm bình tưới cây nhỏ, tưới vào những chậu hoa trước cửa. Ông không thể nhầm được, đó chính là vợ mình dù thời gian có thay đổi. Ông tính rướn người lên gọi nhưng kịp ngừng lại.Một người đàn ông tóc vàng từ bên hông nhà đi tới, đến sau lưng người thiếu phụ ôm choàng lấy nàng, hai người hôn nhau thắm thiết. Ông lặng người tê tái, quay gót bỏ đi. 
 
Về quán trọ, ông viết vội vài chữ gửi cho vợ, hẹn nàng cho ông gặp mặt dù chỉ một vài phút. Ngồi trước mặt vợ, ông nhận thấy nàng rất đẹp, đẹp hơn trước nhiều, nhưng cũng không đấu được nhiều nếp nhăn trên trán khóe mắt, vành môi. 
 
Để phá tan bầu không khí ngỡ ngàng. Ông Sinh khen vợ:
“Em. Trông em đẹp lắm !”.
“Cám ơn anh. Anh qua đây từ bao giờ? Trông anh già và ốm yếu quá ! Anh có cần sự giúp đỡ gì không? Chồng em quen biết rất nhiều.”
 
Ông Sinh thấy nàng tự nhiên qúa, không có nét xúc cảm nào lộ trên khuôn mặt. Ông cũng bình thản.
“Cám ơn em. Anh, chữ nghĩa tiếng Anh, tiếng u còn kém lắm, vả lại mới qua chưa cần gấp. Anh muốn gặp con, nó dạo này thế nào rồi ?”. 
 
Không trả lời vội. Nàng đẩy ly cà phê sữa tới trước mặt ông:
“Cà phê Starbuck này ở Mỹ có tiếng lắm. Em còn nhớ anh thích uống cà phê nên em kêu. Còn con hả, em cũng muốn mong gặp nó đây. Mấy năm nay nó chẳng hề ghé thăm mẹ. Lâu lâu gọi phôn lấy lệ”.
Ông Sinh nhỏm dậy:
“Em đã làm gì nó? Bây giờ nó ở đâu? Cho anh xin số phôn và địa chỉ của nó!
“Nào em biết. Nó không muốn cho em biết bất cứ điều gì.”
Ông Sinh như chết điếng :
“Em nói thật đó chứ?!”.
“Em không dối gạt anh. Dù chúng ta không còn là vợ chồng. Nhưng đối với con em rất mực thương yêu. Có anh đây em rất mừng, anh sẽ lo cho nó. Nó là đứa con rất có hiếu. Sự việc không hay xẩy ra, hoàn toàn do lỗi tại em. Anh đi tìm con dùm em. Cho anh biết thêm là hiện nay nó đang học nghành y-khoa, sắp ra trường. Anh cứ đi hỏi mấy trường đại học xem sao! Em đã dò hỏi khắp mọi nơi rồi, nhưng vẫn biệt vô âm tín. Anh mới qua chắc cần tiền bạc, em giúp.”
Vừa nói, nàng vừa mở bóp lấy cuốn chi phiếu.
Ông Sinh nghe vợ nói một hồi như lùng bùng lỗ tai. Không cần nghe thêm, ông xô ghế đứng dậy. 
 
Nhờ những người quen biết chỉ dẫn. Ông Sinh đăng tin tìm người trên báo chí cả Mỹ lẫn Việt, cùng phôn tới tất cả các trường đại học xa gần, vẫn không có kết qủa. Ở nước Mỹ to lớn này gồm năm mươi tiểu bang, có biết bao nhiêu trường đại học mà kể, tìm người như tìm kim đáy biển, biết đâu mà mò. Rồi ông lại suy nghĩ vớ vẩn, nhỡ con bé tự tử. Nghĩ tới, nghĩ lui làm ông rối trí thêm. Cuối cùng ông đành buông xuôi cho số phận thời gian. 
 
Để mưu sinh và cũng để tạo cơ hội tìm kiếm, ông ghi danh đi học khóa đào tạo y công, phụ giúp trong các bệnh viện, hầu hy vọng có một ngày nào đó gặp được con mình.
 
Thời gian cứ thế trôi qua. Ông đã phục vụ rất nhiều bệnh viện trong tiểu bang California này mấy năm rối, cũng thăm hỏi nhiều rồi, sự hy vọng của ông càng ngày càng giảm, hầu như tuyệt vọng. 
 
Niềm vui thú duy nhất của ông hiện thời là mấy con cào cào xanh, mà ông cất rất kỹ từ khi thăm nuôi tới giờ, dù chúng đã khô héo quắt queo. Mỗi khi nhớ con ông lại mang ra ngắm nghía, tâm hồn ông lúc đó hoàn toàn chìm đắm trên khuôn mặt cuả bé Mai.  
 
----ooOoo---- 

 Jennifer Trần là một bác sĩ trẻ, đẹp, làm việc rất siêng năng, cần mẫn, hay giúp đỡ mọi người. Ai cần việc gì, khó khăn gì hay trong nhà cần chuyện gì, cần người thay thế, bác sĩ vui lòng giúp đở, dù đó là ngày nghỉ của mình. Bác sĩ đã có vị hôn phu cùng phục vụ trong cùng một bệnh viện. Hai người tính làm đám cưới lâu rồi, nhưng không hiểu vì sao cứ lần này rồi lại lần khác, không thể thực hiện được. Bạn bè thúc giục, khuyên nhủ, nàng chỉ cười.. Tuy là người vui tính thích bong đùa, nhưng bác sĩ Trần vẫn không dấu được nét buồn của mình. Nét buồn đó càng làm tăng thêm vẻ đẹp dịu hiền, mà ai cũng gọi đùa là “nữ hoàng sầu muộn” Dù còn trẻ, nàng vẫn không thích nơi hội hè đình đám, những chỗ đông người, mà chỉ muốn sống cho riêng mình, nhưng đối với bạn hữu nàng cũng quậy ra trò.
 
 
Hôm nay ông Sinh nghỉ không đi làm. Ông rảnh rỗi cùng người bạn gìa đi thăm cháu gái của ông ta bị bệnh nằm trong bệnh viện. Tiện thể ông mang mấy con cào mà ông mới thắt đêm qua, cho cháu gái làm qùa. 
 
Ngày chủ nhật, bệnh viện sao có qúa nhiều ca mổ! Bác sĩ Trần đã thấm mệt, mồ hôi rịn đầy trán. Nàng lấy khăn mui xoa chấm chấm mồ hôi, bây giờ nàng mới thực sự được rảnh tay.
 
Bác sĩ Trần đi qua dẫy phòng khoa nhi để đến phòng ăn, vì từ sáng đến giờ nàng chưa có cái gì vào bụng. Những tiếng cười khanh khách của một bé gái nào đó vang lên từ phòng khoa nhi. Cảm thấy vui vui nàng ghé lại nhìn thử. Một bé gái, nằm quay mặt vào phía trong, hình như đang giỡn với vật gì đó, làm cho cô bé khoái chí cười nắc nẻ. Tính tò mò thúc đẩy, nàng rón rén lại gần, nhìn vào phía trong.. Bất gíác nàng run người lên, mắt mở trợn trừng. Cô bé dang cho hai con cào cào xanh đá nhau, hai con cào cào được thắt bằng lá dừa xanh , trông thật là đẹp. Nàng run run cầm lên mân mê. Hỏi :
“Ở đâu bé có hai con cào cào này?”. 
Như sợ bị la mắng, chơi đồ chơi trong phòng bệnh. Cô bé phân bua :
“Không phải của con mua, mà của ông gìa lúc nẫy cho con”. 
 
Bác sĩ Trần không kềm được xúc động , hỏi dồn:
“Bao lâu rồi ? Ông đi đâu ?”.
Cô bé hốt hoảng :
“Dạ…dạ, con cũng hổng biết. Đã lâu rồi!” 
Bác sĩ Trần hốt hoảng bước ra khỏi phòng, dáo dác nhìn quanh. Mặc kệ cho bụng đói, nàng chạy từ phòng nọ qua phòng kia, từ dẫy nọ qua dẫy kia để tìm kiếm. Trước sự lạ lùng đó, mọi nhân viên trong bệnh viện đều vây lại hỏi thăm, Nàng hỏi bâng quơ :
“Có ai thấy ông gìa nào đó trong bệnh viện không?”
 
Trước câu hỏi ngây ngô đó, mọi người đều không nín được cười, nhưng không ai dám cười trước vẻ nghiêm trọng của bác sĩ Trần.
Trong bệnh viện này, biết bao nhiêu ông gìa, bà cả đi thăm con cháu, người thân. Cảm thấy câu hỏi của mình qúa ngớ ngẩn, nàng cười gượng :
“Thôi. Không có gì, cám ơn các bạn.”
 
Tuy nói vậy nhưng trong lòng nàng vẫn không yên, tự nghĩ: ”Chỉ có cha mình mới thắt kiểu đó, nhưng ông đã chết rồi mà! Chẳng lẽ vì quá nhớ cha mà đâm ra mê sảng ?.!”
Thôi đi ăn cơm!. 
 
Bác sĩ Trần, chính là bé Mai. Từ khi theo mẹ đi thăm nuôi cha, trở về nhà, không ngày nào bé không nghĩ đến cha của mình. Ngày vượt biển ra đi, bé nhất định không chịu , đợi ngày cha trở về đi cùng. Vì sự hăm dọa của ông bà ngoại cùng những lời khuyên giải của mẹ, bé đành chịu phép. Sang đến Mỹ bé nhất định phải học giỏi để có tiền gửi cho bà ngọại đi thăm nuôi cha đều đều. Bé sẽ nhẩy cao, sẽ cứng cáp như những con cào cào xanh mà cha đã từng nói.
 
Cuộc vượt biên êm xuôi. Sau hơn một năm ở trên đảo, bé cùng mẹ được định cư tại Hoa-Kỳ. Dòng đời đưa đẩy, mẹ lấy chồng khác, một anh chàng Mỹ giầu có. Cô bé có thêm hai đứa em. 
 
Giờ đây, bé Mai đã mười chín tuổi, cái tuổi bước vô ngưỡng cửa đại học. Càng lớn nàng càng giống cha. Đã nhiều lần nàng biên thư và gửi tiền cho ngoại để hỏi thăm tin tức, cùng sức khỏe của cha trong trại tù, nhưng không ai trả lời. Có hỏi mẹ, chỉ được biết :
“Cha con đã chuyển đi ra ngoài Bắc rồi. Bà ngoại đã già không thể đi được.”
 
Nói sao nàng tin vậy. Mỗi lần nhớ ông, nàng lại mang hình hai cha con ra ngắm. Tấm hình nàng đã mang theo khi đi vượt biên. 
 
Sống chung đụng trong cùng một mái nhà. Điều làm cho nàng ghê tởm, xấu xa, bỉ ổi nhất là anh chàng Mỹ kia cứ nhởn nhơ mặc quần lót đi trong phòng khách.. Có lần hắn đã dám xàm xở ôm nàng xờ xoạng khi không có mẹ ở nhà. Từ đó nàng đã bỏ nhà đi sang tiểu bang khác, chỉ biết học và làm việc tự lo cho bản thân, lâu lâu hỏi thăm mẹ qua điện thoại công cộng.
Vào một ngày, khi điện thoại về thăm mẹ, được bà báo cho biết : Cha đã chết trong tù!
Mọi vật như xụp đổ. Nguồn hy vọng bám víu cuối cùng cũng không còn. Thế là hết!
 
Nàng đã khóc đến khô cả nước mắt, cuộc sống như tẻ nhạt, chán chường không còn tha thiết gì nữa! Nàng chỉ biết vùi đầu vào sách vở cho quên nỗi buồn, và phải chiến đấu, chiến đấu, cứng cáp như những con cào cào xanh mà cha nàng khi còn sống hằng mong mỏi. Cuối cùng nàng cũng lấy được mảnh bằng chuyên khoa giải phẩu. 
 
Qua tin tức báo chí. Bác sĩ Trần được biết các sĩ quan tù cải tạo được chính phủ Mỹ cứu xét cho định cư tại Hoa kỳ theo chương tình HO. Không hiểu sao nàng hồi hộp lạ thường.
Rồi quyết định bỏ miền đông tuyết phủ, trở về với nắng ấm Cali. 
 
Hôm nay là ngày lễ Thanksgiving day, nàng muốn đi ra biển. Không phải để tắm hay hóng gió mà nàng muốn làm một công việc, công việc này nàng đã dự tính từ lâu nhưng vì qúa bận rộn nên không thể thực hiện được. Nhân ngày lễ tạ ơn nàng phải làm điều gì để nhớ ơn cha. Nàng sẽ thắt thật nhiều, thật nhiều con cào cào thả xuống biển, để chúng mang lời cầu nguyện của nàng đến người cha thân yêu. Nàng tin tưởng rằng ở nơi xa xăm vĩnh cửu nào đó cha nàng sẽ nhận được lời khấn nguyện này.
 
Nàng rủ bác sĩ Hải (vị hôn phu) cùng đi chơi biển. Chàng rất thích thú lẫn ngạc nhiên về lời yêu cầu này, khác với bản tính trầm lặng không thích nơi ồn ào của nàng từ trưóc đén giờ, bèn okay chấp nhận liền.
 
Trong khi chờ đợi vị hôn phu đi mua thức ăn. Nàng dã kiếm đựợc khá nhiều lá dừa xanh, cẩn thận chau chuốt tước từng lá và bắt đầu thắt những con cào cào. Nàng để hết tâm trí vào công việc, chìm đắm trong niềm thương nhớ cha. 
 
Ngoài kia. Sau khi đã mua thức ăn, trên đường trở về chỗ cũ nơi bãi biển, chàng thấy một đám con nít đang vây chung quanh một cụ già Việt-Nam, trên tay đứa nào cũng cầm một con cào cào, thấy hay hay chàng cũng xin một con. 
 
Vừa đi vừa ngắm con cào cào, chàng cảm thấy nó rất đẹp và còn có vẻ oai phong nữa. Chàng sẽ cho vị hôn thê, chắc nàng sẽ thích thú lắm! Về đến nơi. Thật, chàng không thể tin vào mắt mình, nàng cũng đang thắt…..con cào cào.
“Em đang làm gì vậy.”
“Thắt con cào cào.”  
Chàng cầm con cào cào mới xin được, vẫy vẫy trước mặt nàng.
“Anh cũng có một con.”
Nhìn con cào cào, mặt nàng tái mét, hỏi dồn:
“Ở đâu anh có nó?” 
Chàng chỉ về hướng đám trẻ:
“Một cụ già Việt-nam cho anh.”
 
Chẳng nói chẳng rằng, nàng nắm tay chàng chạy như bay về hướng chỉ. Một ông già, tóc bạc qúa nửa. đeo cặp kiếng lão, Hai tay đang thoăn thoắt thắt những con cào cào. Dù thời gian, tuổi tác có thay đổi, nhưng với hình dáng kia, nét mặt kia đã in sâu vào tâm khảm, nàng không thể nhầm được, chính là cha nàng. Qúa xúc động, nàng ngất xỉu.
 
Sự việc xẩy ra qúa đột ngột, bác sĩ Hải hoảng hốt la cầu cứu. Ông Sinh (vâng, chính ông Sinh) ở vị trí gần nhất nghe tiếng hét vội vàng nhào tới. Ông vội thọc tay vào túi quần lấy lọ dầu xanh thoa lên hai thái dương cô gái, giựt tóc mai, giựt gân cổ. Bỗng người ông run lẩy bẩy, tim như muốn ngừng đập, khi ông thấy nốt ruồi son trên cổ cô gái, trên tay cô còn nắm chặt con cào cào. Như có linh tính, ông định thần nhìn kỹ khuôn mặt thiếu nữ. Ông gào lên trong tiếng nức nở, nghẹn ngào:
“Trời ơi! Mai….Mai, con tôi.” 
 
Cũng vừa lúc xe cứu thương tới nơi, đưa bệnh nhân lên xe. Ông Sinh, bác sĩ Hải cũng vội vàng leo lên theo. Cầm tay con gái, lòng ông Sinh bồi hồi xúc động, ông không nghờ gặp con trong hoàn cảnh này. Hai hàng nước mắt ngắn, dài chẩy trên hai gò má nhăn nheo. Nhưng ông cảm thấy sung sướng và ấm áp vô cùng.
*
Tin bác sỹ Trần thị Mai gặp lại được cha già sau hai mươi năm xa cách đã loan truyền khắp trong bệnh viện, một vụ trùng phùng đầy đau thương, thích thú, khiến ai cũng mủi lòng. Hôm nay nhà bác sỹ Mai thật đông đảo khách tới thăm, bạn bè, thân hữu nghe tin mang hoa tới chúc mừng.  
 
Trong mấy năm qua, bây giờ mọi người mới thấy được nét tươi vui, rạng rỡ thực sự trên khuôn mặt u sầu của vị bác sỹ mà họ mến yêu. Nhưng người sung sướng nhất vẫn là bác sỹ Hải. 
 
Dương Thịnh 

----ooOoo---- 


Thư Không Niêm Gửi Bạn
  
(Thay lời một vị thương phế binh VNCH đang kẹt ở VN gửi người bạn cũ
ngày xưa đã vượt biên nhưng nay lại viện dẫn đủ mọi lý do để về vui chơi)

Gửi nhờ tập vé số trên tay,
Chống nạng đến đây để gặp mày.
Hụt hẫng thấy mày ngồi giữa quán,
Đang cùng bầy cán bộ vui say.

Không muốn bị mang tiếng quấy rầy,
Khi lòng đang thất vọng chua cay,
Nên đành mượn tạm vài trang giấy,
Viết bậy đôi câu gửi tới mày.

Mày hãy cùng tao nhớ lại ngày,
Cùng mày trong bóng tối chia tay,
Mày thề rằng nếu Trời cho thoát,
Mày ắt không quên mối hận này.

Từ đó, trong đau đớn dập vùi,
Bọn tao mòn mỏi đợi tin vui.
Ngờ đâu hạnh phúc lùi xa mãi,
Nghĩ đến Quê Hương lại ngậm ngùi.

Mày trở về chơi đã lắm lần,
Lúc thì viện cớ gặp người thân,
Lúc theo "từ thiện" tìm danh vọng,
Hí hửng vô tròng bọn ác nhân.

Hàng vạn hàng trăm các hội đoàn,
Tranh đua làm thiện thật gian nan.
Hân hoan vì chút hào quang giả,
Họ đã an nhiên giúp bạo tàn.
 
Mày cũng lần theo đóm múa may,
Hết quà lại cáp phát rền tay.
Tiền Tây, tiền Mỹ xài như rác,
Lầu các thi nhau mọc dẫy đầy.

Mày biết dân đây được những gì,
Khi đoàn cứu trợ đã ra đi?
Đất đai ngập lụt, nhà tan nát,
Ngơ ngác trên tay một gói mì!

Biết chăng vì những đứa như mày,
Sự thật quê nhà chẳng chịu hay,
Hãnh diện ta đây về "cứu viện",
Nên bầy quỷ đỏ hiện còn đây.

Mày có biết mày đã tiếp tay,
Nuôi dân cho chúng để rồi nay,
Chúng càng thêm có đầy phương tiện,
Để khiến dân ta mãi đọa đày.

Cả bầy chúng vẫn sống xa hoa,
Xuất ngoại đầu tư, sắm sửa nhà,
Con cái tiêu ra hàng bạc triệu,
Đồng tiền đó liệu lấy đâu ra?

Mày so với chúng được bao lăm,
Tỷ phú tiền Tây chúng cả trăm.
Của cải một thằng trong Bắc phủ,
Thừa nuôi dân sống đủ nhiều năm.

Phải chăng vì cật ấm cơm no,
Mày lại mơ màng chức vị to,
Nên mới trở cờ o bế giặc,
Qua sông ngoảnh mặt với con đò?

Tao xót xa nhìn lũ bạn thân,
Ngày xưa vượt biển lắm gian truân,
Nay khuân tiền bạc về quê cũ,
Góp sức nuôi bè lũ hại dân.

Bạn mình giờ lắm kẻ giàu sang,
Áo gấm xênh xang rộn xóm làng.
Có đứa vênh vang bằng cấp lớn,
Hùa theo lũ ngợm chống Cờ Vàng.

Có thằng may mắn lắm đồng ra,
Thơ thới về đây, bỏ vợ nhà.
Có đứa làm sui gia với giặc,
Ra ngoài trở mặt líu lo ca.

Thấy miệng mày thoa mỡ nói năng,
Lòng tao chua xót chợt hay rằng,
Xuống thuyền mấy đứa đêm hôm đó,
Giờ đã "vinh quy" đủ bấy thằng!

Tao tưởng bao năm ở nước ngoài,
Chúng mày phải biết rõ hơn ai,
Ngày ngày đọc thấy nhiều tin tức,
Sao lại vô tâm được thế này?

Lần cuối cho tao nói một lời:
Nếu còn người trở lại ăn chơi,
Đua đòi danh lợi, buôn "từ thiện",
Thì chớ mơ chi chuyện vá trời.

Nắng chiều cuốn xác lá trôi,
Bóng đôi nạng gỗ đơn côi ngược dòng.
Trần Văn Lương
 
----ooOoo----
 
 

----ooOoo----

Ngày tảo mộ lần thứ nhất.
 
Tôi đến đây thăm ngôi mộ của tôi. Ba năm trước người ta đưa tôi ra nghĩa trang này. Hôm ấy có người khóc. Chung quanh mộ bia tôi có hoa. Bốn năm ngày sau hoa mới tàn. Sau trận mưa, hoa mới rữa. Người coi nghĩa trang hốt hết đổ vào thùng rác. Rồi thỉnh thoảng mộ tôi vẫn có hoa. Những cánh hoa lẻ tẻ trong lòng một vài người nhớ tôi. Không nhiều. 

Hôm nay không còn thế nữa. Tôi đến đây khá sớm. Tôi hồi hộp không biết hôm nay thế nào. Tôi không biết mình sẽ gặp lại những ai. Hôm nay kỷ niệm 3 năm ngày người ta chôn tôi. Tôi còn nhớ 3 năm trước, cũng vào ngày này, có Linh mục mặc áo lễ, có ca đoàn hát. Trước khi đến đây, tôi nôn nao không biết ngày hôm nay có những gì. Tôi hồi hộp.
 
Bây giờ thì rõ rồi, không ai đến cả vì đã quá giờ. Bằng giờ này 3 năm trước người ta đứng chung quanh xác mới chết của tôi. Hôm nay không ai đến. Tôi đợi thêm cho tới ngang chiều thì biết rõ những gì tôi hồi hộp chờ đợi không xảy ra. Tôi đợi mãi, bây giờ xế chiều, sắp tối. Sắp tối thì chắc chắn không có ai ra đây nữa. 

Tôi đứng bên cạnh mộ bia của tôi. Tên tôi còn kia. Ngày sinh, ngày chết. Nhưng chung quanh vắng quá, càng về chiều càng vắng. 

Tôi đứng đây một mình trong ngày tảo mộ. Nhớ về kỷ niệm 3 năm trước. Ngày đó xác tôi còn tươi. Nhưng ngay trong nhà quàn, có người cũng chỉ đứng nhìn rồi rẩy nước phép lên mặt tôi, chứ không dám đến gần. Mới đó mà đã là xa cách. Người ta sợ con người khi chết. Ngay người thân sống với nhau hàng ngày, mà khi chết rồi người ta cũng sợ. Người ta không sợ con trâu, con bò chết, người ta sợ con người. Không biết vì sao lại thế. Khi có người chết, người ta bảo nhà ấy có đám ma. Có đám ma. Vâng, có đám ma. 

Người ta sợ nghĩa trang. Người ta bảo ngoài nghĩa trang có ma. Sống với nhau mà vừa chết người ta đã sợ xác chết rồi. Cũng thân xác đó cho nhau say đắm mà sao người ta sợ nó. Người ta bảo nhà có đám ma. 

Rất nhiều người sợ đứng trong phòng một mình với xác chết. Hôm tôi chết, tôi nhìn xác tôi, nhà quàn cố gắng trang sức mà da tôi vẫn xanh, lạnh cứng. Có người đứng nhìn, họ giữ một khoảng cách. Tôi biết họ sợ. Vừa mới nói chuyện, vừa mới ăn cơm chung, vừa mới đi phố, vừa mới gặp nhau thế mà giờ nhìn xác tôi, họ sợ. Tại sao người ta không sợ con vật chết, mà lại sợ xác người?
 
 
Chỉ người mới có hồn. Hồn thiêng liêng đi về một cõi vô hình. Không kẻ sống nào có kinh nghiệm về cõi vô hình như tôi là kẻ chết bây giờ. Hồn ấy có thể vất vưởng điêu linh. Hồn ấy có thể an vui trong cõi hằng sống. Hồn ấy có thể thành ma. Hồn ấy có thể thành thánh. Hồn ấy có thể bình an. Hồn ấy có thể trăn trở khắc khoải. Thế giới này sau khi chết mới thấy rõ. Tuỳ thuộc lúc còn sống mà hồn ấy quyết định nơi chốn cho mình ra đi khi chết, và hồn ấy sẽ thành hồn gì. 

Người ta sợ xác người vì cái hồn đó. Xác ấy thành hồn thánh hay hồn ma?
Xác ấy an nghỉ hay là oan hồn khắc khoải?
Hồn ấy sẽ về gặp người sống trong thứ hồn nào? 

Phải chăng vì thế mà người ta sợ? Phải chăng lúc sinh thời người ta chưa gặp hồn thánh trong xác thân kia nên bây giờ sợ không biết hồn về trong xác thân nào.

Bây giờ trời đang vào tối. Càng không ai dám ra nghĩa trang. Vì thế tôi càng biết chắc là kỷ niệm 3 năm ngày tôi chết, vắng quá, nơi ngôi mộ của tôi. Tôi không muốn đứng trong nghĩa trang này như thế mãi làm gì. Tôi đi tìm một vài kỷ niệm cũ của tôi lúc đương thời. Mặt trời xuống phía sau rặng cây sồi. Mây không còn hồng. Một khoảng trời xám phủ xuống nghĩa trang.  

Ðầu tiên, tôi trở về ngôi nhà thờ cũ năm xưa. Bậc thềm vẫn như nguyên. Mấy chân nến đồng lâu năm lắm rồi vẫn nằm trong xó tối góc nhà. Cây thánh giá cũ. Tượng Chịu Nạn một năm mới xử dụng một lần dịp Tuần Thánh. Chả có gì thay đổi. Chỉ có tôi đã ra đi. Tám giờ tối có thánh lễ. Nhà thờ đông và vui. Tiếng đàn vẫn như xưa. Người vẫn tấp nập. Trong thánh lễ không có lời kinh nào cầu nguyện cho tôi. Ai cũng bận rộn với bao nhiêu công việc, bao nhiêu chương trình. 

Tôi gặp một vài khuôn mặt quen ngày xưa. Nhưng hôm nay làm sao họ nhìn thấy tôi được. Tôi nhìn họ thôi. Họ cũng bận rộn như bao nhiêu người. Tôi cố mói với họ: “Hôm nay tôi đi tảo mộ. Hôm nay kỷ niệm ngày chết của tôi.” Nhưng tiếng tôi như gió bay trong trời rộng, chả ai nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo sau họ. Tôi cố nói mà không ai nghe. Tôi đi như thế một quãng đường rồi tôi chán. Tôi phải trả họ về cho đời sống của họ. Rồi một ngày nào họ cũng giống như tôi thôi. 

Tôi đi tìm một vài cánh thư tôi đã viết. Tôi bắt gặp mấy lá thư cũ trong căn nhà của người này. Chúng còn đó, nhưng người ta cũng quên rồi. Mấy tấm hình năm xưa. Một chút dư âm còn lại trên cõi đời. Bây giờ nhìn lại, vậy mà ngày đó tôi mất bao thời giờ cho cánh thư ấy. Tôi muốn được lòng người này, tôi muốn tình cảm của người kia. Bây giờ chả còn gì. 

Tôi đi tìm một vài đồ dùng của tôi. Bao nhiêu công trình tôi sưu tầm, sách vở, hình ảnh, nghệ thuật. Vì người sống không cùng ý nghĩ với tôi, nên sau khi chết thì chả còn ai gìn giữ chúng cả. chúng đã tan tác rồi và dần dần biến đi. Thế mà lúc sống tôi bận tâm săn sóc từng ly từng tý. Có khi tôi tiếc xót về những thứ này. Bây giờ tôi đứng nhìn những thứ ấy sao xa lạ quá. 

Một thời để nhớ, một thời thấy là hư vô.
Một thời thu góp, một thời thấy là hoang vu.
Một thời ôm giữ, một ngày thấy là cách xa. 

Tôi cũng đi tìm người ngày xưa không thích tôi. Họ ghen tương chuyện này, chuyện kia, họ thử thách tôi điều này, điều nọ. Tôi đứng ngay cạnh họ, họ chả biết gì. Có điều trong thế giới siêu hình người chết thấy nhiều điều người sống không thấy. Tôi thấy họ cũng giả hình nhiều lắm. Họ cũng bon chen nhiều lắm. Sự thành thật thường là che đậy bằng những hảo ý tinh vi. Tôi thấy họ cũng thường quá. Vậy mà ngày còn sống, tôi cứ băn khoăn về lời phê bình này, lời phê bình kia của họ. Chết rồi mới thấy nhiều cái trên cõi đời quá phù vân. 

Tôi cũng đi tìm người ngày xưa tôi không thích. Bây giờ tôi đứng ngay bên cạnh, mà họ cũng chẳng biết gì. Lúc còn sống tôi không thích họ chứ không phải họ không thích tôi. Chết rồi tôi mới biết mình sai. Những người chỉ trích tôi làm tôi bận tâm, còn người tôi không thích thì tôi quên họ. Bây giờ mới thấy mình lầm nhiều. Họ chả là gì trong xã hội quý trọng danh vọng. Trong thế giới siêu hình tôi thấy cuộc đời họ cô đơn. Vậy mà ngày đó tôi không thích họ. Bây giờ tôi nói họ: “Tôi xin lỗi nhé. Tôi muốn yêu thương và chân thành” Nhưng họ chả nghe thấy gì. Tôi lẽo đẽo theo họ một quãng đường rồi tôi thất vọng. Họ chả biết gì. Trong trái tim họ, đôi khi nhớ đến tôi, họ chỉ buồn. Ðó, tôi cũng còn lại một chút dư âm. 

Tôi đi lang thang chỗ này, chốn kia. Tôi tìm người này người nọ. Tôi đứng bên cạnh bàn ăn và ngửi thấy hương thơm cà phê. Tôi ngồi trong xe và nghe họ nói chuyện. Tôi ở bãi biển nghe họ nhắc về những kỷ niệm, trong đó có bóng hình tôi. Tôi đi tìm và cũng còn một chút dư âm trên cõi đời. Nhưng cuộc sống là tiếp tục. Nên tôi chả còn là bao nữa trong cái dư âm kia.

Hôm nay tôi về tảo mộ sau ba năm. Tôi sẽ trở lại nghĩa trang này hơn hai mươi năm sau xem tôi như thế nào. Ngày đó là kỷ niệm 25 năm. Người ta gọi là silver jubileee, Ngày lễ bạc.

Lạy Chúa,
Con về nhìn lại ngôi mộ mình sau cái chết. Có những điều ngày xưa con phải coi thường thì con lại bận tâm. Như lời phê bình của người này, kẻ kia. Như nỗi sợ này, nỗi lo kia. Cái bận tâm ấy làm cuộc sống con mất bao nhiêu buổi bình minh đẹp, mất bao nhiêu tối trăng mơ màng thơ mộng.
 
Con đã không biết rong chơi trên cõi đời. Hồn con thiếu tự do vì quá bận rộn với biết bao dự tính. Bây giờ con làm gì với những dự tính đó? Còn người ta, có ai tiếp tục cái dự tính đó đâu. Có con hay không, cuộc đời vẫn là cuộc đời. Con tưởng ngày con chết đi sẽ là thiếu vắng. Như dòng sông, vừa múc đi một vốc nước là nó lại đầy ngay chả còn dấu vết gì...Vậy mà ngày con sống, tưởng mình là cần thiết. Con phải dành cho mình lẽ đúng. Con đã không biết rong chơi trên cõi đời để mất biết bao mùa xuân lá xanh non, mất biết bao mùa hạ nắng thênh thang. Ngày còn sống sao lòng con chật chội quá. 

Lạy Chúa, có biết bao điều con coi thường thì bây giờ con tiếc nuối. Như sự thương mến chân thành. Như trái tim không chật hẹp. Như biết quý sự tự do của con tim hơn. Như sự từ bỏ cho cõi lòng thênh thang hơn. Nếu những ngày đó con biết quý nó thì đời sống của con đẹp thêm biết bao, có thêm bao nhiêu con suối hiền hòa, có thêm bao nhiêu thung lũng xanh tươi. Bây giờ con biết thì quá trễ. Nhìn lại ngày đó, con bực bội vì họ chần chừ để hết hạn mới mua chiếc vé tầu, làm con phải trả thêm tiền. Con bực bội mãi vì họ không nghe lời. Thực ra họ cũng bận rộn, luôn luôn bận rộn. Bây giờ con mới thấy tiếc vì những ngày tháng cứ bận rộn là bận rộn, không biết rong chơi. Những thứ bực bội đó làm con mất vui, làm mất những ngày đẹp. Bây giờ nhìn lại nó chả đáng gì.  

Tôi ngang qua nghĩa trang. Nhìn ngôi mộ tôi lần nữa. Có mình tôi tảo mộ tôi. Kẻ sống đã chôn và cho tôi một ngôi mộ rồi. Bây giờ là phần tôi. Một mình tôi với ngôi mộ của tôi. 

Chiều nay đứng bên ngôi mộ của riêng mình nghĩ lại cuộc đời năm xưa. Bây giờ thì tôi biết rõ cuộc đời rồi, nếu được trở lại kiếp làm người nữa thì tôi sẽ sống như thế nào? 

Lm. Nguyễn-Tầm-Thường