Trong cuốn "A History of Reading", Alberto
Manguel, nhà văn Argentina, viết:
"Các chế độ độc tài không
muốn chúng ta suy nghĩ, nên ngăn cấm, đe dọa và kiểm duyệt. Trước và sau đều nhằm
mục đích làm chúng ta ngu ngốc và cam phận với sự xuống cấp về sự hiểu biết của
mình. Vì vậy các chế độ này khuyến khích tiêu thụ những thứ rác rưởi. Trong bối
cảnh này, đọc sách báo ngoài luồng kiểm duyệt trở thành hoạt động phá hoại".
Kiểm soát, cắt xén, ngụy tạo
thông tin phục vụ tuyên truyền lừa mị là mục đích của các nhà nước độc tài toàn
trị hay các chế độ chuyên quyền.
Tháng 6 năm 1989, chính phủ
không cộng sản đầu tiên tại Ba Lan được thành lập. Việc đầu tiên mà chính phủ
thực hiện là ngưng toàn bộ hoạt động của cơ quan kiểm duyệt trung ương, vào lúc
bây giờ có tới 465 nhân viên, mỗi năm tiêu thụ hàng tỷ đô la và giải thể hoàn
toàn cơ quan này vào năm 1990.
Nhà nước Ba Lan chỉ còn nắm
giữ hai kênh truyền hình TVP1 và TVP2, bên cạnh khoảng 200 kênh truyền hình tư
nhân khác như Polsat, TVN, TV Puls, Canal +, v.v... Tuy nhiên không có bất kỳ tờ báo nào trong hàng
trăm nhật báo và tạp chí thuộc hệ thống nhà nước.
Nền dân chủ non trẻ cần báo
chí, truyền thông tự do để xây dựng và lành mạnh hoá xã hội. Tất cả sinh hoạt của
cộng đồng xã hội, của nhà nước Ba Lan đều được phản ánh rộng rãi trên báo chí.
Trong hơn hai mươi
năm dân chủ, báo chí tự do tại Ba Lan thực sự là sân chơi, diễn đàn bình đẳng
cho sự cạnh tranh, tranh chấp chính trị giữa các đảng phái, nhưng đồng thời
cũng là vũ khí hiệu quả nhất vạch trần tham nhũng, tội phạm. Trong đối ngoại,
báo chí đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ chủ quyền.
Một nền dân chủ đích thực
không phải chỉ có quốc hội đa đảng, bầu cử tự do mà là phải đảm bảo có báo chí,
truyền thông tự do. Đấy là tiêu chuẩn then chốt, là chân lý.
Bao giờ cho đến... ngày xưa?
Trong thời kỳ Việt Nam bị thực
dân Pháp đô hộ, báo chí tư nhân vẫn được phát hành.
Ngày 15/4/1865 nguyệt san
Gia Định xuất bản tại Sài Gòn là tờ báo quốc ngữ đầu tiên trên toàn quốc.
Tại Nam Kỳ lần lượt phát
hành Nhật trình Nam Kỳ (1883), Phan Yên báo (1898), Nông Cổ Mín Đàm (1901), Nhật
Báo Tỉnh (1905), Lục Tỉnh Tân văn (1907), Nam Kỳ Địa phận (1908), Tân Đợi Thời
báo (1916, sau đổi thành Công Luận báo), Nam Trung Nhật báo (1917), An Hà Báo
(1917, ở Cần Thơ), Đại Việt Tạp khí (1918, ở Long Xuyên), Nữ Giới Chung (1918)…
Một phụ bản của tờ "Lục
tỉnh Tân văn" ở Sài Gòn xuất hiện ở Bắc Kỳ là tuần báo "Đông Dương Tạp
chí", ra mắt ngày 15/5/1913, do F. H. Schneider làm giám đốc và Nguyễn Văn
Vĩnh giữ chức chủ bút. "Đông Dương Tạp chí" tồn tại được 6 năm 4
tháng (1913 - 1919).
Đông Dương Tạp chí có mục
đích chính trị là tuyên truyền cho chính sách bảo hộ của người Pháp, nhưng với
những người Việt Nam cộng tác, thì họ dùng tờ báo để tuyên truyền cho việc duy
tân đất nước và xây dựng một nền văn học mới.
Tháng 7/1917 tờ Nam Phong Tạp
chí do Phạm Quỳnh chủ trương ra đời. Trong bài "Quốc học và chính trị",
năm 1921, ông viết:
“Gầy dựng, tổ chức một nền
tản văn thích hợp với đời nay, và có cốt cách An Nam, vừa có thể cách tân thời
đủ dùng để diễn được các tư tưởng mới, đó là cái cấp vụ hiện nay, mà là cái đường
thứ nhất trong việc gầy dựng một nền quốc học sau này vậy… Nhà văn muốn thờ nước
không có cái phương tiện nào hay bằng giúp cho nước nhà có một nền quốc văn xứng
đáng. Đó là chủ nghĩa của tôi bấy lâu nay, mà là cái tín điều thứ nhất trong đạo
quốc gia của tôi vậy”.
Nam Phong Tạp chí có sự tham
gia của một số cây bút nổi tiếng như Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác), Đông Hồ (Lâm Tấn
Phác), Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu), Mân Châu (Nguyễn Mạnh Bổng), Tung Vân (Nguyễn
Đôn Phục), Đông Châu (Nguyễn Hữu Tiến), Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Tương Phố,
Dương Quảng Hàm…
Dù bị hạn chế,
nhưng báo chí tư nhân trong giai đoạn Pháp thuộc đã nói lên được tiếng nói của
người bị trị, góp phần không nhỏ trong việc chấn hưng dân trí.
Ô nhục thay nền báo chí cách
mạng
Báo chí cách mạng là công cụ
của đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), phục vụ cho mục đích cầm quyền của ĐCSVN và
chịu sự kiểm duyệt, quản lý chặt chẽ của ĐCSVN.
Một bộ máy tuyên truyền cồng
kềnh, chi phí tốn kém khủng khiếp cho một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát
thanh truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của
các bộ, ngành, với 17 ngàn nhà báo mang thẻ, cộng thêm đội ngũ dư luận viên,
chuyên gia bút chiến đông đảo và 80 ngàn tuyên truyền viên miệng trên khắp
các tỉnh thành.
Thế nhưng, từ khi
có internet, bộ máy tuyên truyền này bị vỡ toang và phải đối đầu không khoan
nhượng với báo chí lề dân, thông qua các blogs và mạng xã hội.
Bằng con số "có hơn
31,3 triệu người sử dụng internet, chiếm 35,58% dân số (tính đến 11/2012) và
"tổng số thuê bao băng rộng hiện nay đạt gần năm triệu, tổng số thuê bao
3G đạt hơn 3,3 triệu, 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và trung học phổ thông ở Việt Nam có kết nối để truy nhập
internet băng rộng...", Bộ Thông tin - Truyền thông cho rằng "tự do
internet của Việt Nam là sự thật không thể bác bỏ. Hay nói cách khác, Việt Nam
là quốc gia hết sức thân thiện với internet".
Đây là một tuyên bố láo
khoét!
Trước hết, số lượng người sử
dụng hoàn toàn độc lập với sự tự do Internet. Sự phát triển Internet đã không tỷ
lệ thuận với sự tự do sử dụng. Số lượng người sử dụng tăng nhanh, nhưng nhà nước
VN cũng đồng thời tìm cách đánh phá các trang web có các bài viết không đúng với
đường lối chính sách của ĐCSVN.
Nếu không phải là
hung thần của Internet thì làm sao có chuyện tướng công an Vũ Hải Triều khoe
khoang đánh sập 300 trang mạng xấu trong một cuộc hội nghị báo chí năm 2010? Cho tin tặc đột nhập phá hoại
đã trở thành chính sách xuyên suốt. Các trang báo lề dân liên tục bị tấn
công. Mạng xã hội Facebook bị chặn hết sức quyết liệt, người sử dụng vẫn phải sử
dụng công nghệ vượt tường lửa để truy cập.
Nhà cầm quyền đã càn quét,
khủng bố các cây bút tự do. Trong một thời gian ngắn gần đây, gần 40 bloggers bị
bắt giữ, tù đày, trong đó nhiều người nhận mức án tù rất nặng nề, phi lý như Điếu Cày 12 năm tù, 5 năm quản
chế; Tạ Phong Tần 10 năm tù, 3 năm quản chế; Hồ Đức Hoà 13 năm tù...
Việc bắt giam các bloggers Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy
chứng tỏ phản ứng lúng túng, điên rồ của nhà chức trách.
Trong bài "Trận địa
thông tin" trên tờ Lao Động Online ngày 10/01/2013, Thứ trưởng Bộ Thông
tin và Truyền thông Đỗ Quý Doãn đã thừa nhận:
"Tại sao chúng ta có một hệ thống hơn 700 tờ báo, 67 đài phát thanh
truyền hình, hàng trăm trang tin, báo điện tử, hàng ngàn trang tin của các bộ,
ngành. Có tới 17.000 nhà báo, trong đó có nhiều cây bút có đủ khả năng làm lay
động bạn đọc mà thông tin lưu truyền trong xã hội lại là thông tin từ blog cá
nhân”.
“Lên tiếng một cách đồng loạt, im lặng một cách đồng loạt”, báo chí đang
đánh mất niềm tin của bạn đọc. Và, với việc né tránh những thông tin nhạy cảm,
với việc không được cung cấp thông tin đầy đủ kịp thời, báo chí đánh mất nốt
thói quen tìm kiếm thông tin của bạn đọc, khi giờ đây, họ “lên mạng”, thay vì
tìm đọc báo. Đây là những sự thật đau lòng".
Khi xã hội bị khủng hoảng
lòng tin, cái Ác lên ngôi thay thế cái Thiện, sự dối trá và vô cảm thành vấn nạn
thường trực, chủ quyền an ninh quốc gia bị đe doạ nghiêm trọng, ngư dân bị xua
đuổi, ức hiếp trên biển Đông, mà báo chí lề đảng cũng chỉ nói đến tàu "lạ",
hoặc "đồng loạt im lặng" trong những ngày kỷ niệm lịch sử chống
Trung Quốc xâm lược, thì bộ máy tuyên truyền có lớn bao nhiêu đi nữa khó mà đảo
ngược thực tế. Người ta đi tìm sự thật ở lề dân.
Lời tự thú của Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn là sự ô nhục của một nền báo chí cách
mạng!
Lê Diễn Đức - Nhân ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21/6