Sắp đến ngày sinh nhật của Cha (15/5) con dâng lên Thiên Chúa cùng Mẹ Maria lời cầu nguyện thiết tha xin ơn trên luôn phù trợ và giử gìn cho Cha trước những xúc phạm vô đạo, vô nhân, vô cảm, vô lý của những con người cs vô thần đang tuôn đổ xuống tấm thân gầy gò bệnh hoạn của Cha. Cầu xin cho Cha luôn vững lòng tin trên con đường tranh đấu cho “Công lý và Sự thật” cũng như Tự do và Nhân quyền cho đất nước VN. Con vẫn luôn nhớ đến Cha trong kinh nguyện hàng ngày.
Mừng sinh nhật Cha.
Lãng Tử 75
==========================================================
Sống Phúc Âm giữa lòng Dân Tộc
Bài thuyết giảng của LM Trần Quý Thiện (cựu tù nhân chính trị dưới chế độ CSVN từ 1975-1988) trong Thánh Lễ cầu nguyện cho LM Tađêô Nguyễn Văn Lý và những tù nhân lương tâm
Kính thưa…
Dưới ánh sáng Niềm Tin Công Giáo, chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa là Chủ của Lịch Sử. Ngài đã biểu lộ tình thương của Ngài qua các biến cố lịch sử, vì Ngài đã tạo thành vạn vật và điều khiển muôn loài. Trong cái nhìn vĩnh cửu và quyền năng vô biên, Thiên Chúa luôn luôn quan phòng để mọi sự kiện xảy ra trên thế giới, cũng như trong cuộc đời mỗi người, mang một giá trị tích cực đối với Ơn Cứu Độ, dù con người có thể không nhận thức được giá trị ấy, do tầm nhìn nhất thời và hạn hẹp của mình.
Trong dòng Lịch Sử Việt Nam; dân tộc chúng ta đã trải qua nhiều bước thăng trầm: những chiến thắng oanh liệt cũng như những năm dài nô lệ ngoại xâm, những giai đoạn phát triển thịnh vượng cũng như những cuộc nội chiến đau thương, người Công giáo Việt Nam chúng ta luôn tin tưởng rằng mọi biến cố vui buồn đều mang giá trị cứu độ của Thiên Chúa.
Theo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, được soạn thảo dưới triều vua Tự Đức năm 1856, thì vào năm Nguyên Hoà (tức 1533), vua Lê Trang Tông đã ban hành chỉ dụ cấm đạo Gia Tô, trong đó có ghi tên một tu sĩ ngoại quốc tên là I Nê Khu, đã theo đường biển lén lút đến truyền đạo Gia Tô tại làng Ninh Cường và Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, miền Bắc Việt Nam. Nếu năm 1533 đã có sắc chỉ cấm đạo thì Tin Mừng Đức Kitô tất nhiên đã được rao giảng trước đó, nghĩa là đầu thế kỷ 16. Đó là mốc thời gian đầu tiên ghi dấu vàng son của Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.
Hạt giống bé nhỏ Tin Mừng Đức Kitô ấy đã lặng lẽ âm thầm nảy mầm, và nhờ Thiên Chúa quan phòng đã sinh hoa kết quả. Nhưng không biết bao nhiêu giông tố bão táp kinh hoàng đã bao phủ!! Người ta không thể nào kể hết biết bao cuộc bố ráp, lùng kiếm, bắt bớ, giam cầm, sát hại những lớp giáo dân Việt Nam đầu tiên, dưới thời chúa Trịnh miền Bắc, và chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, các vua nhà Nguyễn và Phong Trào Văn Thân tại miền Nam…
Ngày nay, các nhà viết sử làm sao có thể đo lường được mức độ tàn bạo dã man đến kinh hoàng với muôn vàn hình thức khác nhau mà các nhà cầm quyền thời đó đã thi đua sáng kiến ròng rã bốn thế kỷ (XVI-XIX) trong cố gắng dập tắt Niềm Tin Công Giáo của cha ông chúng ta vào Đức Kitô!! Nào giam cầm tù ngục, tan xương nát thịt, máu chảy đầu rơi, voi giầy ngựa xéo, quẳng vào vạc dầu sôi, nhốt trong cũi sắt, cũng không làm các ngài quá khoá nghĩa là chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô!!
Kết thúc 400 năm kéo dài trong đau thương đẫm máu đó của Giáo Hội CGVN là trên 130.000 tín hữu CG đầu tiên đã tuẫn tiết, can trường chấp nhận cái chết để trung thành trong Niềm Tin vào Thiên Chúa!! 400 năm giảng đạo đã biến thành 400 năm sống trong cảnh máu chảy đầu rơi!!
Nhận định về cuộc sống và cái chết các vị Tử Đạo VN, người ta thấy các Ngài không sống và chết cho mình hoặc vì những lý do trần tục như danh vọng, địa vị, tiền bạc! Các Ngài đã sống trên miền đất Quê Hương mà chúng ta đã sống và phục vụ! Các Ngài đã trở thành Chứng Nhân của Niềm Tin sắt đá vào Đức Kitô, đã thà chết hơn là chối bỏ!! Muốn thế, các Ngài phải lựa chọn giữ trung thành và phản bội, giữa sự sống và cái chết, giữa Đức Kitô và thế tục. Chính những nguyên nhân đó đã khiến thế giới Công Giáo luôn ngưỡng mộ và không ngừng khâm phục Tinh Thần Bất Khuất của Cha Ông chúng ta.
Dưới một khía cạnh nào đó, chúng ta cũng có thể nói các vị Tử Đạo Việt Nam là những Chứng Nhân tiền phong cho Nhân Quyền trên thế giới, đã đánh đổi chính mạng sống mình để mọi người sau này được tự do sống đạo và hành đạo mà ngày nay chúng ta gọi là Quyền Tư Do Tôn Giáo, vì trước đây 5 thế kỷ làm gì có tổ chức Liên Hiệp Quốc và bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Chứng nhân nhân quyền thời nay.
Một vấn đề quan trọng khác mà hôm nay chúng tôi xin thưa với qúy vị: Đó là dòng máu tử đạo vẫn còn đang chảy lênh láng trên quê hương Việt Nam. Với chủ trương vô thần, chính quyền Cộng Sản vẫn đang thực hiện chính sách đàn áp mọi quyền ttự do căn bản của con người với những biện pháp tinh vi khoa học hơn trước đây rất nhiều.
Là một Linh Mục đã đi cải tạo 13 năm trong ngục tù CS, chỉ vì đã phục vụ trong ngành Tuyên Úy Công Giáo/QLVNCH. Kinh nghiệm bản thân cho chúng tôi hay hiện nay trên thế giới không có chế độ lao tù nào dã man tàn bạo bằng các nhà tù Việt Cộng, vì họ đã tích lũy kinh nghiệm coi tù từ Liên Xô, Trung Cộng, các nước Đông Âu cộng với những mánh lới ác độc của Việt Cộng.
Kể từ ngày 30/4/1975, khi những người Cộng Sản từ miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam, theo lượng đoán của những nhà viết sử thì tổng số các Linh Mục VN dòng và triều đã đi tù cải tạo là trên 200 vị, trong đó gần 30 vị bị chết trong tù.
Ngày nay, nếu người ta cần phải nêu cao tấm gương của một Linh Mục VN đã dâng hiến trọn vẹn đời mình cho Quê Hương và Giáo Hội như nhà ái quốc Ái Nhĩ Lan O’Conor đã tuyên bố trước khi bị hành quyết: Trái tim tôi xin dâng hiến cho Thiên Chúa, còn thân xác này, xin gửi lại dân tộc Ái Nhĩ Lan thì con người Việt Nam đó không ai khác, chính là Linh Mục Tađêô NGUYỄN VĂN LÝ.
Chính Cha Lý là người đã thể hiện lời tuyên bố của Đức Kitô Không có tình yêu nào cao qúy bằng chết vì người khác.
Do đó, cuộc sống của Cha Lý đã trở thành biểu tượng cho những khát vọng tha thiết nhất cho Tự Do và Nhân Quyền của mọi người, đặc biệt cho quyền Tự Do Tôn Giáo không chỉ riêng cho 8 triệu người Công Giáo mà cho tất cả các tôn giáo tại Việt Nam. Chính Cha Lý là người đã thực hiện hoàn hảo nhất Lý Tưởng mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố trong Thư Chung 1980 sau khi thống nhất đất nước. Sống Phúc Âm Giữa Lòng Dân Tộc vì Quê Hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Chúa. Và Dân Tộc này là Cộng Đồng mà Thiên Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tư cách vừa là Công Dân trần thế vừa là thành phần Dân Chúa.
Vậy, Nguyễn Văn Lý, Ngài là ai?
.Nguyễn Văn Lý là một Linh Mục Công Giáo Việt Nam, tên Thánh là Tađêô, sinh ngày 15 tháng 5 năm 1946, tại làng Ba Bình, xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, miền Trung Việt Nam trong một gia đình có truyền thống Công Giáo đạo đức.
.Năm 1963, lên 17 tuổi, cậu Lý muốn dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa và được Linh Mục Nguyễn Như Tự bảo trợ và giới thiệu vào tu học tại tiểu chủng viện Hoan Thiện, thành phố Huế.
.Năm 1966, lúc 20 tuổi, thầy Lý được Bề Trên giáo phận tuyển chọn để theo ban Triết học và Thần học tại Đại chủng viện Xuân Bích, Huế.
.Sau 11 năm tu luyện, nguyện ước trở thành mục tử của Chúa đã trở thành hiện thực, tháng 4 năm 1974, Thầy Tađêô Nguyễn Văn Lý đã được hân hạnh thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Phủ Cam, thành phố Huế dưới sự đặt tay của Đức Tổng Giám Mục Philipphê Nguyễn Kim Điền. Năm đó, Cha Lý đúng 28 tuổi.
Sau đó tân Linh Mục Nguyễn Văn Lý xin gia nhập Hội Thừa sai do Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền sáng lập, với mục đích hoạt động truyền giáo nơi những vùng dân cư nghèo khó. Ngài được bổ nhiệm phụ trách Cộng Đoàn Thừa sai tại quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định.
Một biến cố đau thương nhất của dân tộc xảy đến, sau ngày 30/4/1975, tân Linh Mục được gọi trở về Huế làm Thư ký cho Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Kim Điền. Vì được hân hạnh làm bí thư bên cạnh một vị Giám Mục nổi tiếng đạo đức và yêu nước là Đức TGM Nguyễn Kim Điền nên Cha Lý đã nối gót Ngài đi vào con đường tranh đấu cho Giáo Hội và Quê Hương Dân Tộc.
Tính đến nay (năm 2009) Cha Lý đã 63 tuổi, thụ phong Linh Mục 35 năm, đã bị CSVN kết án 4 lần tổng cộng 53 năm. Ngài đã ở tù 16 năm, không kể thời gian bị quản chế; đây là 4 lần bị ra toà lãnh án
-Tháng 9 năm 1977, bị kết án 20 năm tù với tội danh chống phá cách mạng, bị giam tại Thừa Phủ, Huế.
-Tháng 5 năm 1983, bị kết án 10 năm tù và 4 năm quản chế với tội danh gây rối trật tự xã hội bị giam tại Thanh Cẩm (Thanh Hoá) và Ba Sao (Nam Hà).
-Tháng 10 năm 2001, bị kết án 15 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh phá hoại chính sách đoàn kết bị đưa về giam tại trại tù Ba Sao (Nam Hà).
-Ngày 8 tháng 4 năm 2006, Ngài thành lập Khối 8406 quy tụ tất cả những ai muốn tranh đấu cho Nhân Quyền tại Việt Nam.
-Ngày 30 tháng 3 năm 2007, cách đây đúng 2 năm, Cha Lý bị kết án 8 năm tù và 5 năm quản chế với tội danh tuyên truyền chống phá Nhà Nước. Đây là một phiên tòa quái đản trơ trẻn bất công nhất thế giới, không có luật sư biện hộ, không nhân chứng, thân nhân không được tham dự!! Cha Lý bị còng tay, lôi kéo ra trước tòa, một nhân viên an ninh mặc thường phục đã lấy tay bịt miệng Ngài! Hình ảnh một Linh Mục bị còng tay trước tòa , gợi cho ta hình ảnh Đức Kitô bị điệu trước toà án Philatô. Nhưng Philatô hỏi, chúa Giêsu còn được trả lời, còn Cha Lý bị bịt miệng.
Chính hình ảnh bịt miệng trước tòa đã tố cáo đời sống bi đát hiện nay của 80 triệu đồng bào chúng ta trong một cuộc sống đọa đày dưới áp bức bạo tàn.
Quả thật, hình ảnh bịt miệng đã đánh động lương tâm nhân loại khiến Quốc Hội Hoa Kỳ và Quốc Hội Âu Châu đã vinh danh Cha Lý là một người tù bất khuất và Hội Đồng Giám Mục Đức dành cả một năm để cầu nguyện cho Việt Nam và cho Ngài.
Và lần đầu tiên trong lịch sử, 165 Linh Mục VN hải ngoại trên khắp thế giới đã chính thức công bố Bản Lên Tiếng hỗ trợ cuộc tranh đấu cho Tự Do Tôn Giáo và Nhân Quyền do Cha Lý phát động.
Là những người VN sống xa Quê Hương nhưng vẫn nặng lòng với Dân Tộc, hôm nay chúng ta tụ họp nơi đây để dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện tha thiết nhất phát xuất tận đáy lòng để cầu nguyện cho Quê Hương VN thân yêu sớm thoát khỏi nạn CS vô thần, đặc biệt cầu cho Cha Lý kiên tâm vững chí bước theo Đức Kitô.
Cầu cho Cha Lý hôm nay, chúng ta không quên cầu cho tất cả những tù nhân khác đang làm chứng cho Công Lý và Sự Thật, vì chỉ có Công Lý và Nhân Quyền mới giải phóng con người và đất nước chúng ta.